Hôm nay Pgdphurieng.edu.vn sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 8: Thuyết minh về một thể loại văn học.
Bạn đang xem: thuyết minh về một thể loại văn học
Với tài liệu này hi vọng các bạn học sinh lớp 8 cũng đã có thêm những kiến thức cần thiết về văn tự sự.
Soạn bài Thuyết minh về một thể loại văn học – Mẫu 1
I. Từ quan sát đến miêu tả và miêu tả một thể loại văn học
Đề bài: Thuyết minh về đặc điểm của thể thơ tám chữ
1. Quan sát
Đọc kĩ hai bài thơ Vào ngục Quảng Đông để hứng và đập đá ở Côn Lôn rồi trả lời các câu hỏi:
Một.
– Mỗi bài thơ có 8 dòng, mỗi dòng có 7 chữ (tiếng).
– Số dòng, số chữ là bắt buộc, không thể thêm bớt tùy tiện.
b.
* Vào nhà ngục Quảng Đông để cảm nhận:
- Vẫn là thiên tài, vẫn giàu có: T - B - B - T - T - B - B
- Mỏi chân thì đi tù: T – T – B – B – T – T – B
- Khách vô gia cư bốn biển: T – T – B – B – B – T – T
- Lại là tội nhân giữa năm châu: T - B - T - T - T - B - B
- Nắm lấy nền kinh tế: T – B – B – T – B – B – T
- Há mồm cười mối thù: T–T–B–B–T–T–B
- Thân còn đó mà nghiệp: B - T - T - B - B - T - T
- Biết bao nguy hiểm sợ hãi: B – B – B – T – T – B – B
* Đập đá ở Côn Lôn:
- Làm người đứng giữa Côn Lôn: B - B - T - T - T - B - B
- Lộng lẫy làm núi đổ: B – T – B – B – T – T – B
- Cầm búa đập năm bảy cọc: T - T - T - B - B - T - T
- Đập vài trăm tảng đá: B - B - T - T - T - B - B
- Tháng giữ gìn cơ thể của người sành sỏi: T - B - B - T - B - B - T
- Nắng mưa thêm bền bỉ: B – T – B – B – T – T – B
- Kẻ vá trời lỡ bước: T - T - T - B - B - T - TILL
- Kể chuyện của con bạn khó đến mức nào: B - B - B - T - T - B - B
c.
* Vào nhà ngục Quảng Đông để cảm nhận:
– Dòng 1 và dòng 2 đối nhau (âm “là” bằng, âm “mỏi” là gặp)
– Dòng 2 và 3 trùng nhau (gặp tiếng “mỏi”, gặp tiếng “khách”)
– Dòng 3 và 4 đối nhau (chữ khách gặp nhau, chữ người gặp nhau)
– Dòng 4 và 5 viết trùng nhau (chữ “người” là bằng, chữ “tay” là bằng)
– Dòng 5 và 6 đối nhau (âm “tay” bằng, âm “miệng” xấu)
– Dòng 6 và 7 trùng nhau (tiếng cửa miệng, tiếng cửa miệng đó)
– Dòng 7 và 8 đối nhau (âm “that” là dở, từ “many” là bằng)
– Dòng 1 và dòng 8 viết liền nhau (chữ “là” là bằng, chữ “bao nhiêu” là bằng).
=> Hệ thống bằng được tính từ tiếng thứ hai của mỗi dòng thơ. Tiếng thứ hai trong dòng đầu tiên của bài thơ này là bằng nhau, vì vậy bài thơ bằng nhau.
* Đập đá ở Côn Lôn: Tương tự bài “Vào ngục Quảng Đông để cảm” - thể thơ lục bát.
d.
– Vào nhà ngục Quảng Đông với những cảm xúc sau: vần, âm cuối câu 2 với câu 6 (tù – thù), âm cuối câu 3 với câu 5 (bê – sa), âm cuối câu 4 với câu thơ 8 (châu - đâu).
– Đập đá ở Côn Lôn: vần chân ở âm cuối các câu 2, 4, 6, 8 (non, đảo, con, con).
đ. Cả hai bài thơ đều có 4/3 . tạm dừng
2. Lập dàn ý
Một. Khai mạc
Nêu nét chung về thể thơ tám âm
b. Thân hình
* Nêu đặc điểm thể thơ:
– Số câu, số chữ trong mỗi bài
– Luật bằng về thể thơ
- Vần của thể thơ
– Cách ngắt nhịp chung của từng dòng thơ
c. Kết thúc
Cảm nhận của em về vẻ đẹp và nhạc điệu của thể thơ.
Bản tóm tắt:
– Để lí giải đặc điểm của một thể loại văn học (thể thơ hay văn bản cụ thể), trước hết hãy quan sát, nhận xét, sau đó khái quát thành đặc điểm.
– Khi nêu đặc điểm cần lựa chọn đặc điểm tiêu biểu, quan trọng và có ví dụ cụ thể để làm rõ các đặc điểm đó.
II. Luyện tập
Giải thích những nét chính của truyện ngắn trên cơ sở các truyện ngắn: Tôi đi học, Lão Hạc, Chiếc lá cuối cùng.
Gợi ý:
1. Mở bài
Giới thiệu đôi nét về thể loại truyện ngắn - một trong những thể loại văn học quan trọng của nền văn học Việt Nam.
2. Cơ thể
Một. Ý tưởng
Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là những câu chuyện được kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn hơn, súc tích hơn và có ý nghĩa hơn những câu chuyện dài hơn như tiểu thuyết.
– Thông thường truyện ngắn chỉ dài vài dòng cho đến vài chục trang, trong khi tiểu thuyết khó dừng lại ở con số đó. Vì vậy, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng nhất trong nghệ thuật truyện ngắn.
b. Đặc điểm chính của truyện ngắn
Xem thêm: có bao nhiêu giá trị nguyên của tham số m
– Về dung lượng: số trang viết ít, không dài.
– Về sự kiện, nhân vật: ít nhân vật, sự kiện vì dung lượng truyện ngắn không lớn. Thường chỉ là một vài nhân vật và sự kiện nhỏ.
Về cốt truyện:
- Diễn ra trong thời gian và không gian hẹp
- Không thể hiện toàn bộ cuộc sống, nhưng mô tả nó về mặt thời gian
c. Nghĩa
- Truyền đạt tư tưởng của người viết.
- Chứa đựng ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa xã hội...
3. Kết luận
– Tầm quan trọng cũng như vẻ đẹp, sức hấp dẫn của truyện ngắn
- Thể loại văn học phù hợp với đời sống xã hội hiện đại.
(Chứng minh đặc điểm của thể loại tản văn qua các truyện ngắn trên)
Soạn bài Thuyết minh về một thể loại văn học – Mẫu 2
Tôi thực hành
Giải thích những nét chính của truyện ngắn trên cơ sở các truyện ngắn: Tôi đi học, Lão Hạc, Chiếc lá cuối cùng.
Gợi ý:
Truyện ngắn là một trong những thể loại văn học quan trọng nhất. Đây cũng là thể loại được nhiều độc giả yêu thích. Khi tìm hiểu về thể loại này, chúng ta có thể thấy những đặc điểm riêng của nó để phân biệt nó với các thể loại khác.
Trước hết, về khái niệm truyện ngắn, sẽ có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng hiểu một cách đơn giản, đúng như tên gọi, truyện ngắn là một thể loại văn học, với những câu chuyện được kể bằng văn xuôi. Có nội dung ngắn gọn, súc tích và ý nghĩa hơn truyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn chỉ có độ dài từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi tiểu thuyết khó dừng lại ở con số đó. Vì vậy, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng nhất trong nghệ thuật truyện ngắn.
Trước hết, về hình thức, truyện ngắn có dung lượng ngắn và số trang ít. Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống nhất định, một chủ đề nhất định. Trong khi đó, nếu là thể loại tiểu thuyết hàm chứa nhiều vấn đề, bao quát một phạm vi rộng lớn của đời sống. Vì vậy, truyện ngắn thường rất hạn chế về nhân vật, thời gian và không gian trong truyện ngắn cũng không bao quát như tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảnh khắc của cuộc sống. Câu chuyện đặt ra cho người đọc một nút thắt, một câu hỏi cần được giải đáp. Nút thắt ấy càng thắt chặt đến cao trào thì bất ngờ được cởi trói khiến người đọc hả hê xen lẫn băn khoăn. Truyện ngắn cũng cô đọng và mở rộng, súc tích và ngắn gọn. Tất nhiên, đây không phải là một truyện ngắn đơn thuần, vì một truyện ngắn mười hai trang có thể chứa đựng nhiều ý nghĩa hơn một cuốn tiểu thuyết bốn trăm trang. Chúng ta đang nói về một thể loại khác của tác phẩm hư cấu nói chung. Truyện ngắn chứa tất cả các tài nguyên giống như tiểu thuyết: ngôn ngữ, nội dung, nhân vật và phong cách. Nhà tiểu thuyết có thể sử dụng phương tiện nghệ thuật nào thì nhà văn viết truyện ngắn cũng có thể sử dụng phương tiện đó. Có thể nói truyện ngắn là một bản tình ca được viết bằng văn xuôi.
Về lịch sử hình thành, trên thế giới, ở Trung Quốc và Nhật Bản, trước đây người ta vẫn coi truyện ngắn là tiểu thuyết, gọi là “truyện ngắn” để phân biệt với tiểu thuyết dài tập. bộ sưu tập hoặc "tiểu thuyết vĩnh cửu". Người Việt Nam ngày nay dùng từ truyện ngắn để chỉ “tiểu thuyết truyện ngắn” và từ tiểu thuyết để chỉ “tiểu thuyết dài kỳ”. Ở phương Tây, thể loại truyện ngắn ra đời tương đối muộn, xuất hiện trên tạp chí xuất bản từ đầu thế kỷ 19, mà đỉnh cao là những tác phẩm xuất sắc của nhà văn E.T.A. Hoffmann và Anton Chekhov, mà sau này trở thành một loại hình nghệ thuật chủ yếu của văn học thế kỷ XX. Mặc dù trước đó, truyện ngắn tồn tại dưới hình thức truyền khẩu cổ truyền trong dân gian như truyện ngụ ngôn, nhưng phải đến thế kỷ 20, sự xuất hiện ồ ạt của tầng lớp độc giả biết chữ. XIX ở phương Tây.
Cuối cùng, mỗi tác phẩm truyện ngắn đều chứa đựng một nội dung tư tưởng nhất định của nhà văn. Một số tác phẩm truyện ngắn đã học trong chương trình: Tôi đi học (Thanh Tịnh), Lão Hạc (Nam Cao), Chiếc lá cuối cùng (O.Henry)...
Tóm lại, đây là một thể loại văn học vô cùng quan trọng không chỉ đối với nền văn học Việt Nam mà cả nền văn học thế giới.
II. Bài tập thực hành
Hãy thuyết minh về một thể loại văn học mà em yêu thích.
Gợi ý:
Trong thể thơ phú của dân tộc, lục bát là thể thơ tiêu biểu nhất - một thể thơ cổ điển thuần túy Việt Nam.
Về nguồn gốc, thể thơ lục bát rất phổ biến trong ca dao, dân ca. Vì thế mà lâu nay nhiều người lầm tưởng đây là thể thơ. Thực ra, thể thơ lục bát có thể đã xuất hiện trước thế kỷ XVI - XVII. Từ một loại hình nghệ thuật dân gian, lục bát trở thành một loại hình văn học viết và bắt đầu phát triển rực rỡ trong những thế kỷ tiếp theo.
Thể thơ này gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Từ văn vần đến nói năng, đến quan hệ tình cảm qua lại, than thở trách nhiệm, đấu tranh tuyên truyền đều sử dụng thể thơ lục bát. Thể thơ lục bát rất đơn giản về niêm luật, dễ làm, thường dùng để thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.
Một bài luận không được bao gồm hai hoặc nhiều câu. Trong đó, cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu đối. Các cặp câu gồm một câu 6 tiếng (câu lục bát) và một câu 8 tiếng (câu lục bát) và xen kẽ câu tám tiếng rồi đến các cặp câu khác, số câu trong bài là vô hạn. Chính đặc điểm này có thể được coi là một loại hình có tính chất ngắn hạn hoặc dài hạn.
Đơn vị cơ bản của câu thơ này là sự kết hợp của hai dòng sáu và tám âm tiết. Số câu không hạn chế, về vần, chủ yếu là vần bằng, cứ hai câu mới đổi vần. Tiếng cuối câu sáu gieo vần với tiếng cuối câu tám, rồi tiếng cuối câu tám vần với tiếng cuối câu sáu. Như vậy, ngoài vần chân có cả ở câu sáu và câu tám, ở câu tám còn có vần lưng. Chẳng hạn, trong bài đồng dao sau:
“Công cha như núi
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một Lòng Thờ Mẹ Kính Cha
Làm cho tròn chữ hiếu mới là đạo"
(Dân gian)
Luật bằng thanh trong thơ lục bát; Thơ Lục Bát có hai câu chuẩn là Lục và Bát, cũng như Đường luật, nó tuân theo quy tắc nhất, tam, ngũ bất phân; phân chia nhị phân, tứ phân, lục hợp. Tức là các tiếng thứ 1, 3, 5 trong câu có thể tự do về thanh điệu nhưng các tiếng thứ 2, 4, 6 phải tuân theo những quy tắc chặt chẽ. Luật như sau:
Về hòa âm, chỉ có các tiếng thứ tư là phải bát quái, các tiếng thứ hai, thứ sáu và thứ tám phải bằng nhau. Nhưng ở câu tám, thứ sáu và thứ tám phải có những dấu hiệu khác nhau. Nếu cái trước là cạnh huyền, thì cái sau phải không dấu hoặc ngược lại:
“Cỏ xanh tận chân trời
Có vài bông hoa trên cành lê trắng"
(Truyện Kiều)
Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thể thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải một vần, điều này tạo cho thơ lục bát sự uyển chuyển về vần. Câu thơ lục bát thường có vần bằng; tiếng cuối của câu lục bát bằng tiếng ’, tiếng cuối của câu bát cú bằng tiếng của câu lục bát; và cứ thế cho đến hết khổ thơ:
“Bóng tà ngả về tây
Chị thơ dang tay ra đi
Bước từng bước trên ngọn đồi nhỏ
Xem phong cảnh với bề mặt thanh bar
Chẳng trách nước chảy quanh
Dịp cuối cầu nhỏ qua ghềnh”
(Truyện Kiều)
Ngoài vần chân, câu 6 và câu 8 đều có vần lưng ở câu tám. Phép đối phụ trong thơ lục bát: Là phép đối ở tiếng thứ 6 (hoặc tiếng thứ 4) của câu thơ có tiếng thứ 8. Nếu một âm có thanh sắc trầm thì âm kia phải là thanh ngang và ngược lại:
“Kẻ lên ngựa, kẻ chia quân
Rừng phong thu đã nhuốm màu quýt”.
(Chinh phục ngâm khúc)
Cách ngắt nhịp trong thơ Lục bát: Thơ lục bát thường ngắt nhịp chẵn, là 2/2/2, 4/4, hoặc để bộc lộ cảm xúc yêu đương, buồn vui...
“Một mình ngọn đèn khuya
Một chiếc váy với tóc thả và tóc mái"
(Chinh phục ngâm khúc)
Khi cần diễn tả những tâm trạng khó khăn, trắc trở, mạnh mẽ, đột ngột hoặc bất thường, bất định có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5...
“Trăm ngàn lạy quân
Như một mối nhân duyên ngắn ngủi
Tại sao các bộ phận bạc giống như vôi?
Đành để nước trôi hoa trôi làng.
Ôi Kim Lăng! Này Kim Lăng!
Thôi nào, tôi đã giúp bạn từ đây!
(Truyện Kiều)
Ngoài ra còn có loại lục giác biến thể. Luật thơ vẫn theo luật thơ lục bát nhưng số chữ hoặc số vần có thể thay đổi. Loại biến thể thường gặp trong ca dao:
“Yêu nhau ba bốn núi cũng trèo
Năm sáu sông cũng lội, bảy tám đèo cũng qua.”
(Dân gian)
Thể thơ lục bát thể hiện tâm trạng đa chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường, người bình dân thường mượn loại vần này để bộc lộ tâm tư, tình cảm trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… Vì vậy, thể thơ ca dao chủ yếu vẫn là thể lục bát vì nó có khả năng bộc lộ mọi cung bậc cảm xúc. như tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, tình yêu làng xóm, yêu ruộng đồng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên...
Trong xã hội hiện đại, người ta ngày càng ít dành thời gian thưởng thức một tác phẩm thơ. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển sẽ là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với con người.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết này Soạn bài Thuyết minh về một thể loại văn học Soạn văn 8 tập 1 bài 15 (trang 153)thuộc về Pgdphurieng.edu.vn Nếu thấy bài viết hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá để giới thiệu website đến mọi người. Chân thành cảm ơn.
Xem thêm: giai cấp có tiềm lực kinh tế nhưng không có quyền lực chính trị trong đẳng cấp thứ ba là
Bình luận