tập làm văn Phân tích bài thơ Tự tình và Phân tích bài thơ Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương lớp 11 bao gồm dàn ý Phân tích bài thơ Tự Tình và các bài văn mẫu chọn lọc. Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh Phân tích bài thơ Tự tình hay nhất.
Phân tích bài thơ Tự tình
Lập dàn ý phân tích bài thơ Tự tình
1. Mở bài
Bạn đang xem: phân tích tự tình lớp 11
– Hồ Xuân Hương là một nhà văn nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, bà có nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó Tự Tình là một trong những tác phẩm hay, để lại nhiều cảm xúc cho người đọc.
2. Cơ thể
– Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc đến khung cảnh và không gian của nhân vật trữ tình đứng trong đêm, vạn vật như trong mơ, con người say sưa.
+ Không gian là tiếng trống, vào lúc nửa đêm, vạn vật như chìm vào bóng tối, vang vọng, tiếng trống, trong không gian tĩnh mịch ấy còn có tiếng trống làm rung chuyển cả âm thanh của tác phẩm.
+ Trong không gian ấy, nhân vật ấy mang tâm trạng: cô đơn. bẽ bàng, mặt trơ xương… Những cảm giác ấy được bộc lộ sâu sắc ở khổ thơ 1, người đàn bà ấy cô đơn lạc lõng giữa không gian bao la, rộng lớn, cảnh vật và con người nơi đây đang chơi vơi. đắm chìm trong cảm xúc dâng trào.
+ Nỗi buồn ấy là cô gái phải tìm đến rượu, say rồi tỉnh, nỗi cô đơn ấy càng nặng trĩu trong không gian rộng mở và khiến con người ta càng thêm cô đơn buồn bã.
+ Con người cô đơn, lạc lõng trước không gian, sự mênh mông và cô đơn, trước không gian bao la, nơi cuộc đời còn nhiều chênh vênh.
+ Ở đây, nói về thân phận nhỏ bé, số phận lẻ loi, lạc lõng của người phụ nữ xưa, tác giả đang sử dụng những yếu tố tương phản để miêu tả thân phận người phụ nữ, nhỏ bé, cô đơn, tuyệt vọng. Đắm chìm trong sâu thẳm tâm hồn người phụ nữ.
+ Thân phận người đàn bà nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng trước không gian bao la của núi rừng.
+ Qua đây tôi cũng muốn nói đến sự mạnh mẽ, vượt qua muôn vàn khó khăn, sự cô đơn, trống trải trong tâm hồn. Qua đó thể hiện mong muốn của người phụ nữ.
+ Hai câu cuối nói lên khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ, qua đó nói lên thời thanh xuân ngắn ngủi mà người phụ nữ vẫn luôn mong cầu hạnh phúc
3. Kết luận
– Tác phẩm thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn của người phụ nữ nhưng lại thể hiện khát vọng mãnh liệt của người phụ nữ mong muốn được hạnh phúc, thể hiện những khát khao cháy bỏng của con người.
Bài văn mẫu phân tích bài thơ Tự tình
Phân tích bài thơ Tự tình – bài 1
Thân phận nhỏ nhen của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xa xưa. Nó góp phần thể hiện rõ nét tinh thần nhân đạo trong văn học. Tập thơ Tự Tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.
Người đàn bà cô đơn trong đêm khuya nghe tiếng trống báo giờ đã qua. Canh khuya là khoảng thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Cô cảm nhận được tiếng trống báo hiệu giờ khắc đang hồi hộp chờ đợi một điều gì đó. Nhưng càng mong lại càng thấy không. Tiếng trống dồn dập báo hiệu tâm trạng của nàng đã đến giờ. Nó thể hiện sự mong đợi đầy lo âu, bất trắc, lo lắng và tuyệt vọng của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương miêu tả nỗi tủi nhục của người vợ cô đơn đợi chồng nhưng chồng không đến một chữ - mặt trơ xương, trơ trọi, thân phận người phụ nữ với nước non, với đời, với tình.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương miêu tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
Câu thơ giấu chủ ngữ, chỉ nêu hành động, trạng thái diễn ra. Một chén hương đã dâng tức là uống rượu giải sầu quên đời, nhưng say rồi tỉnh tức là uống rượu vẫn không quên sầu!
Trăng khuyết ở câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn nhưng trăng chưa tròn mà đã lặn, diễn tả cảm giác hạnh phúc chưa tròn. Trăng khuyết cũng có thể là người đã già nhưng phúc chưa tròn.
Nếu như bốn dòng đầu của bài thơ diễn tả tâm trạng chờ đợi, có chút tuyệt vọng, bỏ cuộc thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ nên một hình ảnh gợi bao cảm xúc. Rêu cũng được chiếu sáng bởi bóng trăng nghiêng trên mặt đất. Ta có thể hình dung: những viên đá ấy cũng được ánh trăng xuyên qua để soi sáng. Hóa ra nỗi cô đơn của tôi không bằng những thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là một cảnh thực, nhưng nó có thể chỉ là một hình ảnh tinh thần. Các từ xéo ngang, xỏ xiên có ý nghĩa tiếp nối mạch văn chương đen tối, tồi tàn trong câu văn trên. Nhưng sự vật và hình ảnh thiên nhiên ở đây lại diễn ra với một hình thái khác thường, do tác giả sử dụng những từ ngữ hành động mạnh mẽ, dồn dập:
Xiên ngang mặt đất, rêu mọc thành cụm,
Đập chân mây, đạp thêm vài cái.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là phép đảo ngữ: rêu xiên đất, đá nhô lên chọc thủng mây. Và đó không phải là hình ảnh bên ngoài mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn quậy phá, muốn giải thoát khỏi sự cô đơn, buồn chán. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Sự dồn nén, bị áp bức, bị hủy hoại trong tâm trạng nhà thơ chợt bùng lên và cũng chợt lắng xuống, nhường chỗ cho sự trở lại của sự chán chường, bất lực, chấp nhận, cam chịu. Thơ Chán xuân lại xuân chất chứa nhiều thời gian, buồn chán kéo dài. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, thời gian vẫn tiếp diễn, tình yêu và hạnh phúc chỉ được hưởng một chút. Tác giả đi rồi, tình yêu vốn hạnh phúc chỉ được hưởng một chút. Tác giả dùng từ mảnh vỡ để nói rằng tình yêu nhỏ bé như mảnh vỡ. Lại chia sẻ – Chắc là chia sẻ với chồng, chia sẻ với vợ? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một lời tổng kết, như một lời than thầm thầm kín của người phụ nữ có số phận hẩm hiu về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận bất hạnh của người phụ nữ phải chịu cảnh éo le, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả trước cuộc đời thiệt thòi của con người.
Nét nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét mang sắc thái khỏe khoắn, với các động từ chỉ trạng thái: góc, trơ, rẽ, xéo, xuyên, đi, về. , san. sẻ,… và các tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, nhớ, tròn… để diễn tả cảm nghĩ về cuộc đời, số phận.
Hình ảnh trong bài thơ được nghệ thuật miêu tả hết sức ấn tượng. Nhà thơ thường đẩy đối tượng được miêu tả đến cực điểm của trạng thái tượng hình cao độ. Nói về nỗi cô đơn, cằn cỗi, thùy mị của người phụ nữ: Bớt non nước non. Lời nói xéo, chém gió là những hành động mạnh mẽ như muốn bứt phá, tràn đầy sức sống, thể hiện cảm xúc tuổi trẻ.
Tác phẩm thể hiện một cách nghệ thuật mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc hôn nhân trọn vẹn trong hoàn cảnh bình dị của người phụ nữ với thực tế khắc nghiệt sống trong cô đơn, mỏi mệt mà họ phải chịu đựng, giữa khát vọng được sống trong hạnh phúc hôn nhân một cách chính đáng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc đời mang lại. .
Đoạn thơ thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của tác giả trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực, cam chịu của con người. trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một nỗi niềm đáng thương, một số phận đáng thương, một khát vọng đáng được trân trọng, một tâm trạng sẻ chia của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những ước mơ hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là một bi kịch khó tránh khỏi. Vì vậy, giọng điệu của bài thơ vừa đáng thương vừa xót xa. Yêu cầu giải phóng con người và tình cảm chỉ có thể được đáp ứng trên cơ sở những điều kiện lịch sử - xã hội mới.
Phân tích bài thơ Tự tình – bài 2
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ nổi tiếng của nước ta vào nửa cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Tuy là một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời cô cũng bất hạnh như bao người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến đầy bất công. Bà đã nhiều lần đưa thân phận nhỏ bé ấy của người phụ nữ sống dưới chế độ cũ vào thơ của mình. Tự tình là một trong những sáng tác hay của Hồ Xuân Hương khi thể hiện nỗi đau, nỗi buồn trước những hoàn cảnh éo le của mình, đồng thời thể hiện niềm khát khao hạnh phúc trong cuộc sống một cách mãnh liệt.
Bài thơ được trình bày theo thể thơ thất ngôn, bát cú đường luật. Mở đầu bài thơ là hai câu giới thiệu không gian và thời gian của nhân vật trữ tình:
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Trần mặt hồng với nước non”
Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng thời gian của một đêm cô đơn. Người ta thường nói “đêm khuya” thường là lúc người ta bắt đầu suy nghĩ, đầy tâm trạng. Và đây với Hồ Xuân Hương nữa. Thời gian rất phù hợp với tình cảm chất chứa trong lòng cô. Tiếng trống “vang dội” khiến người đọc không khỏi dán mắt vào âm thanh vang vọng từ xa. Và phải là một đêm rất khuya, rất yên tĩnh để cảm nhận được tiếng trống từ xa vọng lại. Hai từ “hông mặt” kết hợp với tính từ “trơ” được đảo ở đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi buồn tủi, cô đơn, tủi nhục của người phụ nữ. “Nước non” là không gian bao la rộng lớn, là hình ảnh ẩn dụ về một xã hội đầy rẫy những bất công. Hình ảnh “hồng nhan” thật nhỏ bé đối lập với sự bao la của “nước non” gợi lên sự nhỏ bé, tủi hổ của người phụ nữ trước cuộc đời này. Chỉ một khuôn mặt đỏ au hướng ra nước non càng khẳng định sự trống vắng, lẻ loi, cô đơn trong tâm hồn thi nhân.
Trước không gian hiu quạnh, nhà thơ tiếp tục nói về hoàn cảnh khó khăn và nỗi đau cho thân phận mình bằng hai câu thực:
“Chén hương đưa cơn say về tỉnh
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Không ai quan tâm, không ai để tâm sự, nhà thơ mượn “chén rượu” để giải tỏa nỗi lòng. Nhưng hình như càng uống càng tỉnh, tỉnh thì say. Điệp ngữ “say mới tỉnh” thể hiện tâm trạng đau đớn, đáng thương của Hồ Xuân Hương. Cô uống để quên đi những muộn phiền, nhưng rồi cô lại tỉnh dậy, và tỉnh dậy khi nghĩ về nỗi đau và nỗi thống khổ của chính mình. Không chỉ có rượu, trong câu đối còn xuất hiện vầng trăng như một người bạn. Nhưng vầng trăng ấy không phải tròn và tròn mà là “ khuyết và chưa đầy”. Cô nhìn lên mặt trăng và chỉ thấy một mặt trăng "khuyết". Đó là một phép ẩn dụ cho công việc kinh doanh còn dang dở của cuộc đời cô. Đúng như Nguyễn Du đã viết “người buồn bao giờ cũng vui”. Khi bạn buồn, bạn chỉ có thể thấy nỗi buồn ở bất cứ đâu bạn nhìn.
Từ những uất ức trong lòng, tâm trạng nhà thơ càng bị dồn nén như nước lũ:
“Xiên đất rêu thành cục
Xuyên qua chân mây đá"
Nhà thơ nhìn những hình ảnh thiên nhiên chỉ thấy “đất”, “rêu”, “mây”, “đá”. Cảnh vật tồi tàn, hoang vắng, không chút sức sống mà chỉ một màu buồn tẻ, cứng nhắc. Các động từ mạnh “xiên”, “đập” được đảo ngữ ở đầu câu nhằm nhấn mạnh tính chất đấu tay đôi. Sự tương phản nhỏ bé của “rêu” với mặt đất rộng, của “hòn đá nhỏ” với “chân mây” lớn như ẩn dụ cho sự bức xúc, muốn đập phá, muốn vùng lên phản kháng của con người. phụ nữ. Đọc đến đây, người đọc nhận ra khát vọng mãnh liệt giẫm lên những bất công để đòi lại công bằng cho thân phận nhỏ bé của nhà thơ. Tâm trạng trong những câu thơ này dường như dâng lên đến cao trào.
Kết thúc bài thơ, tám cú, nhà thơ trở về với tâm trạng chán nản, đau khổ trước mối tình đơn phương:
"Bệnh của mùa xuân và mùa xuân lại
Tỉnh chung một con nhỏ"
Từ “chán” được đặt ở đầu câu thơ càng nhấn mạnh nỗi chán chường trong lòng nhà thơ. Cụm từ “xuân đi” đối lập với “xuân lại đến” thể hiện sự buồn tẻ, tẻ nhạt. Cụm từ “mảnh tình” thể hiện tình cảm nhỏ bé như một “mảnh ghép” có thể cân đong đo đếm được. Nhỏ bé đến mức có thể đo đếm được, bạn vẫn phải “chia sẻ” với người khác từng cái “nhỏ xíu”. Cụm từ “đứa con bé bỏng” cho thấy tình cảm được chia sẻ quá nhỏ bé, nhỏ bé đến mức không thể nhỏ hơn được nữa. Đọc đến đây, người đọc mới hiểu được nỗi đau của nữ ca sĩ. Điều đó cũng được thể hiện trong một bài thơ khác:
“Chém cha đời lấy nhau
Kẻ đắp chăn, kẻ lạnh lùng.”
Tự Tình là bài thơ đặc sắc của thi sĩ Hồ Xuân Hương. Đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn tủi, tủi hổ, cô đơn của thân phận người phụ nữ trước hoàn cảnh éo le trong tình yêu. Qua đó cũng thể hiện khát vọng mãnh liệt vượt lên trên bi kịch cuộc đời mà vẫn chưa tìm được lối thoát. Đoạn thơ tiêu biểu cho nỗi đau chung của người phụ nữ sống trong xã hội cũ, để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Tự tình – bài 3
Tự tình là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, đây là bài thơ bày tỏ nỗi lòng của chính mình. Như chúng ta cũng biết Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19, bà xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, cha làm giáo viên. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương không bị gò bó trong một xã hội chật hẹp, tù túng mà là người phóng khoáng, đa tài, đa tình, giao thiệp với văn nhân tài tử và ngao du nhiều nơi. Nhưng tiếc thay, người xưa thường có câu “Hồng nhan bạc phận”, cô cũng phải chịu một số phận lận đận, thất thường và đầy mâu thuẫn trong đường tình duyên. Các tác phẩm của bà chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Người ta thường gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm”. Hồ Xuân Hương - hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Đoạn thơ tự tình mở đầu bằng hai câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng vừa tả hình ảnh người phụ nữ - hay có thể gọi là hồng nhan. Nhưng tiếc thay, khuôn mặt hồng hào ấy lại rơi vào hoàn cảnh - cô đơn và trống vắng, giữa đêm đen.
“Đêm khuya vang tiếng trống gác
Trần mặt hồng với nước non”
Từ “vang” được tác giả dùng để miêu tả âm thanh dội lại từ xa, dù không biết từ đâu đến hay dù ở xa mà gần lại nghe. Thời điểm được nhắc đến là “đêm khuya” – thời điểm mà con người ta dễ rơi vào những trạng thái cảm xúc khó tả nhất, cũng là lúc mà một người phụ nữ vẫn ngồi đó, không tài nào ngủ yên. Vẫn ngồi đó suy nghĩ về mọi thứ xung quanh, đặc biệt là về những người trong cuộc đời tôi. Nàng là một người phụ nữ có nhan sắc nhưng được miêu tả là "trơ với nước non. Trước cuộc đời rộng lớn, người phụ nữ ấy nhận ra thân phận của mình chỉ có một mình, tiếng trống canh thêm một nỗi buồn và sự trống trải khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu". để xoa dịu nỗi đau của cô ấy:
“Cho tôi một chén hương và thức dậy
Vầng trăng khuyết chưa tròn.”
Mỗi khi có chuyện buồn, người xưa thường tìm đến cung trăng uống rượu để mở lòng. Chỉ muốn say, hương rượu nồng đến quên hết, nhưng nghịch lý thay, chén rượu đưa lên mũi, mùi thơm nồng vào mũi, người muốn say nhưng đầu óc lại lâng lâng. suy nghĩ vẫn rất tĩnh lặng. Ở đây không còn nỗi buồn nào biến mất mà càng thể hiện rõ hơn nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. Hình ảnh mặt trăng xuất hiện nhưng hình lưỡi liềm không tròn. Có lẽ, ngụ ý về thân phận hạnh phúc của chính tác giả. Anh ấy là một người tài năng nhưng đa tình. haamrhiu. chưa bao giờ đầy. Tuổi xuân đang dần qua mà hạnh phúc chưa kịp đến.:
“Xiên đất rêu thành cục
Khắc chân mấy đá mấy mây”
Hình ảnh rêu được đưa ra ở đây nhưng với những ý tưởng sâu sắc của tác giả Hồ Xuân Hương, rêu là loài vật mỏng manh, nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mãnh liệt, không dừng lại ở đó, trong bất kỳ điều kiện nào. nó vẫn có thể tươi tốt, dù trong điều kiện sống như thế nào. Hình ảnh đám rêu mọc thành chùm xuyên qua lòng đất gợi liên tưởng mạnh mẽ đến sức đề kháng mạnh mẽ của nó cũng như khả năng chống lại một thứ gì đó có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh những viên đá cũng vậy, sự tương phản giữa sự nhỏ bé của những viên đá với sự bao la của đất trời càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó không hề tầm thường chút nào. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thử thách nhưng không bao giờ đi đến thành công. Đời làm vợ lẽ dù đã cố thoát ra vẫn không được. Vậy là chỉ còn 2 câu cuối:
"Mệt mỏi của mùa xuân và mùa xuân lại
Một mảnh tình san sẻ con nhỏ”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại đến, nhưng con người thì khác, tuổi thanh xuân của người phụ nữ qua đi không bao giờ trở lại. Càng đáng buồn hơn cho những số phận đã về hưu, mong ngóng cả tuổi thanh xuân, chờ đợi một hạnh phúc trọn vẹn nhưng chẳng có được. Trước nỗi cô đơn, buồn chán mà Hồ Xuân Hương đã dùng từ "chán" để nói lên phần nào nỗi lòng của nhà thơ lúc này. Mảnh tình nhỏ vẫn phải san sẻ, sẻ chia. Không được hưởng một tình yêu và một hạnh phúc trọn vẹn, đến khi tìm được hạnh phúc lại phải san se, thật đáng thương. Điều đó cũng hàm ý rằng số phận của những người phụ nữ, phải chịu phận làm vợ lẽ, dưới chế độ cũ không được tôn trọng và không có quyền lên tiếng.
Tự tình là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách, tư tưởng của Hồ Xuân Hương, đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Qua đây ta cũng thấy một Hồ Xuân Hương vừa mềm mỏng vừa dũng cảm khi dám nói lên những suy nghĩ của bản thân.
Phân tích bài thơ Tự Tình 2
Lập dàn ý phân tích bài thơ Tự Tình 2
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Tự tình
- Dẫn đến vấn đề cần phân tích
2. Cơ thể
Một. Tổng quan
– Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật
– Nội dung: Bài thơ thể hiện nỗi buồn tâm sự của nhà thơ về số phận cô đơn và niềm khao khát hạnh phúc, tình yêu.
b. phân tích thơ
- Hai câu hỏi:
+ Hoàn cảnh: nửa đêm thức giấc, nghe tiếng trống canh dồn dập.
+ Nội dung: cô đơn giữa cuộc đời.
+ Nghệ thuật sử dụng: từ láy → nghe thật thấm thía
– Hai câu thực:
Thể hiện suy nghĩ của nhà thơ:
+ Buồn thì uống chén rượu cho quên, nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh thì càng buồn.
+ Nhìn trăng thấy trăng đã lặn mà chưa tròn. Trăng như thân phận nhà thơ.
+ Dở dở dang: dang dở, thất vọng, thê lương
- Hai bài luận:
+ Mở rộng tầm nhìn: rêu trên mặt đất, một số tảng đá ở phía chân trời. → Những hình ảnh rất chân thực, gần đúng.
+ Dáng vẻ khỏe khoắn. Có sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định vị thế của mình.
- Hai câu kết:
+ Từ thiên nhiên xung quanh nhìn lại bản thân mình thấy ngao ngán, một nỗi buồn cho mình,.....
+ Thời gian cứ xuân đi xuân lại, một vòng quay không ngừng nghe mà ngao ngán cho số phận của mình. Thanh xuân đã qua nhưng tình yêu nào trọn vẹn
+ Ít chia sẻ
+ Một sự chán nản và thất vọng.
3. Kết luận
Xem thêm: 35 đề ôn luyện toán lớp 4 (có đáp an)
Để lại nhận xét, đánh giá
Mở rộng vấn đề (Cá nhân suy ngẫm và liên tưởng)
Bài văn mẫu phân tích bài thơ Tự Tình 2
Phân tích bài thơ Tự tình 2 – bài 1
Thân phận nhỏ nhen của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xa xưa. Nó góp phần thể hiện rõ nét tinh thần nhân đạo trong văn học. Tập thơ Tự Tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.
Người đàn bà cô đơn trong đêm khuya nghe tiếng trống báo giờ đã qua. Canh khuya là khoảng thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Cô cảm nhận được tiếng trống báo hiệu giờ khắc đang hồi hộp chờ đợi một điều gì đó. Nhưng càng mong lại càng thấy không. Tiếng trống dồn dập báo hiệu tâm trạng của nàng đã đến giờ. Nó thể hiện sự mong đợi đầy lo âu, bất trắc, lo lắng và tuyệt vọng của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương miêu tả nỗi tủi nhục của người vợ cô đơn đợi chồng nhưng chồng không đến một chữ - mặt trơ xương, trơ trọi, thân phận người phụ nữ với nước non, với đời, với tình.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương miêu tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
Câu thơ giấu chủ ngữ, chỉ nêu hành động, trạng thái diễn ra. Một chén hương đã dâng tức là uống rượu giải sầu quên đời, nhưng say rồi tỉnh tức là uống rượu vẫn không quên sầu!
Trăng khuyết ở câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn nhưng trăng chưa tròn mà đã lặn, diễn tả cảm giác hạnh phúc chưa tròn. Trăng khuyết cũng có thể là người đã già nhưng phúc chưa tròn.
Nếu như bốn dòng đầu của bài thơ diễn tả tâm trạng chờ đợi, có chút tuyệt vọng, bỏ cuộc thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ nên một hình ảnh gợi bao cảm xúc. Rêu cũng được chiếu sáng bởi bóng trăng nghiêng trên mặt đất. Ta có thể hình dung: những viên đá ấy cũng được ánh trăng xuyên qua để soi sáng. Hóa ra nỗi cô đơn của tôi không bằng những thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là một cảnh thực, nhưng nó có thể chỉ là một hình ảnh tinh thần. Các từ xéo ngang, xỏ xiên có ý nghĩa tiếp nối mạch văn chương đen tối, tồi tàn trong câu văn trên. Nhưng sự vật và hình ảnh thiên nhiên ở đây lại diễn ra với một hình thái khác thường, do tác giả sử dụng những từ ngữ hành động mạnh mẽ, dồn dập:
Xiên ngang mặt đất, rêu mọc thành cụm,
Đập chân mây, đạp thêm vài cái.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là phép đảo ngữ: rêu xiên đất, đá nhô lên chọc thủng mây. Và đó không phải là hình ảnh bên ngoài mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn quậy phá, muốn giải thoát khỏi sự cô đơn, buồn chán. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Sự dồn nén, bị áp bức, bị hủy hoại trong tâm trạng nhà thơ chợt bùng lên và cũng chợt lắng xuống, nhường chỗ cho sự trở lại của sự chán chường, bất lực, chấp nhận, cam chịu. Thơ Chán xuân lại xuân chất chứa nhiều thời gian, buồn chán kéo dài. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, thời gian vẫn tiếp diễn, tình yêu và hạnh phúc chỉ được hưởng một chút. Tác giả đi rồi, tình yêu vốn hạnh phúc chỉ được hưởng một chút. Tác giả dùng từ mảnh vỡ để nói rằng tình yêu nhỏ bé như mảnh vỡ. Lại chia sẻ – Chắc là chia sẻ với chồng, chia sẻ với vợ? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một lời tổng kết, như một lời than thầm thầm kín của người phụ nữ có số phận hẩm hiu về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận bất hạnh của người phụ nữ phải chịu cảnh éo le, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả trước cuộc đời thiệt thòi của con người.
Nét nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét mang sắc thái khỏe khoắn, với các động từ chỉ trạng thái: góc, trơ, rẽ, xéo, xuyên, đi, về. , san. sẻ,… và các tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, nhớ, tròn… để diễn tả cảm nghĩ về cuộc đời, số phận.
Hình ảnh trong bài thơ được nghệ thuật miêu tả hết sức ấn tượng. Nhà thơ thường đẩy đối tượng được miêu tả đến cực điểm của trạng thái tượng hình cao độ. Nói về nỗi cô đơn, cằn cỗi, thùy mị của người phụ nữ: Bớt non nước non. Lời nói xéo, chém gió là những hành động mạnh mẽ như muốn bứt phá, tràn đầy sức sống, thể hiện cảm xúc tuổi trẻ.
Tác phẩm thể hiện một cách nghệ thuật mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc hôn nhân trọn vẹn trong hoàn cảnh bình dị của người phụ nữ với thực tế khắc nghiệt sống trong cô đơn, mỏi mệt mà họ phải chịu đựng, giữa khát vọng được sống trong hạnh phúc hôn nhân một cách chính đáng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc đời mang lại. .
Đoạn thơ thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của tác giả trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực, cam chịu của con người. trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một nỗi niềm đáng thương, một số phận đáng thương, một khát vọng đáng được trân trọng, một tâm trạng sẻ chia của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những ước mơ hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là một bi kịch khó tránh khỏi. Vì vậy, giọng điệu của bài thơ vừa đáng thương vừa xót xa. Yêu cầu giải phóng con người và tình cảm chỉ có thể được đáp ứng trên cơ sở những điều kiện lịch sử - xã hội mới.
Phân tích bài thơ Tự tình 2 – bài 2
Trong hệ thống những bài thơ chất chứa nỗi lòng của Hồ Xuân Hương, Tự tình là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn sâu sắc và sự cô đơn của một người yêu cuộc sống, tràn đầy sức sống nhưng gặp hoàn cảnh éo le, một người luôn khao khát yêu nhưng chỉ gặp những dang dở, bất hạnh. Đó cũng là nỗi bất hạnh của một giấc mơ chưa thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động (nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và chịu ảnh hưởng phần nào của khí thế sục sôi của phong trào đấu tranh của quần chúng. Họ đòi quyền sống, quyền sung sướng cho con người. Bầu không khí đó đã tác động đến tâm hồn thông minh và giàu lòng nhân ái của cô. Nàng uy nghiêm, thao thức, lo toan cuộc đời, một cuộc đời nhiều lận đận, bất hạnh: Hai lần lấy chồng, hai lần làm nghĩa và hai lần chồng chết yểu. Điều đó, với cô, là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”. Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian với tiếng gà. Đây là một loại không gian và thời gian nghệ thuật được làm nền cho sự bộc lộ tâm trạng của tác giả: “Cảnh khuya thanh vắng”. “Nhạn” là từ tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị tâm trạng, không khí, không khí buồn bã, lặng lẽ của một người thao thức giữa đêm thanh tĩnh. Câu thứ hai làm đau một người bạn tâm tình:
“Xấu mặt hồng nước non”
Cái hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “trơ”. Trơ là cằn cỗi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm thấy buồn. Một nỗi buồn “bê tông” khủng khiếp hơn khi cọ xát với cả xã hội, cả cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên lòng, lên số phận người phụ nữ. Không chịu nổi, cô muốn giãy giụa, muốn trốn thoát. “Chén hương trao” là phương tiện. Không phải là phương tiện duy nhất nhưng gần như cuối cùng để đàn áp quá mức. Tuy nhiên, bi kịch vẫn là bi kịch:
“Một chén hương cho tỉnh cơn say”.
Câu thơ của nữ thi sĩ gợi nhớ đến một bài thơ chiêm nghiệm của Lí Bạch:
“Gươm chém nước, nước không ngừng”
Uống rượu giải sầu, buồn vẫn cứ buồn”
Bất lực, câu thơ chuyển sang cảnh tình. Hồ Xuân Hương nói:
“Trăng khuyết chưa tròn”
Theo quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho tuổi thọ và tuổi thọ của người phụ nữ. Câu “Trăng khuyết chưa tròn” là một hình ảnh vừa đẹp, vừa thực nhưng lại đượm buồn. Nỗi buồn của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết là man mác, gợi nhớ cuộc đời nàng. Trong “mời trầu” nàng đã ẩn chứa tâm tư như vậy.
Câu 5 và 6 dường như đột ngột thay đổi. Tính cụ thể của cách miêu tả khiến cho việc tả cảnh trở nên trong sáng. Một cảnh hoàn toàn có thật:
“Xiên đất rêu thành cục,
Đập chân mây đá cho mấy linh hồn”
Nghệ thuật đảo ngược và đối lập tạo nên những khung cảnh sống động và tràn đầy sức sống. Một sức sống nhờ vào kỹ năng quan sát của cô ấy như đập và khuấy. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “Bà chúa thơ Nôm” chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dù rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm giảm đi cái chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, khát khao sống khiến nàng dù tràn đầy tình nghĩa vẫn nhìn cảnh vật bằng con mắt yêu thương, tha thiết, tràn đầy sức sống. Đó là sự giải thích về những lực cản, những mâu thuẫn trong bản chất của mụ tạo nên câu thơ trào phúng đối lập. Thứ vũ khí ấy còn hơn cả chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là một phương tiện kỳ diệu để nâng đỡ tâm hồn cô. Đến đây ta mới hiểu được tâm trạng và tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương trong hai câu thơ kết:
“Hết xuân rồi, xuân lại về,
Một mảnh tình san sẻ con ơi!”.
Tình đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, nhưng đời tư thì vẫn thế: “Xuân đi xuân lại xuân đi”, trạng ngữ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày và đời. Điều này khiến cô không tránh khỏi thở dài ngao ngán. Càng cay đắng hơn khi giữa vòng quay thời gian ấy lại là một “mảnh tình” đang bị san phẳng, sẻ chia… chia cắt. Đối với trái tim thiết tha với cuộc sống kia, nó như một vết thương, một nỗi đau.
Người ta nói thơ là một tâm trạng, một thông điệp thẩm mỹ. Đọc “Tự tình”, là hiểu được trái tim chất chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời và gặp đủ những dở dang, bất hạnh nên trong thơ chị đôi khi có tiếng thở dài. Một tiếng thở dài quý giá của một người có hoài bão nhưng không thực hiện được, trách nhiệm lại đứng về phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng tư đối lập hẳn với cơ cấu xã hội chung. Với ý nghĩa đó, “Tự tình” là bài thơ đòi quyền được hạnh phúc, là cuộc phản kháng độc đáo chứa đầy tiếng nói bênh vực phụ nữ, tạo nên sự thấu hiểu, cảm thông cho những hoàn cảnh khó khăn. , nỗi khó khăn.
Phân tích bài thơ Tự tình 2 – bài 3
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài sắc vẹn toàn của nước ta vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Ngoài tập Lưu Hương Ký, bà còn để lại cho đời khoảng 50 bài thơ Nôm, phần lớn là thơ đa nghĩa, có cả hàm nghĩa và hàm súc. Một số bài thơ trữ tình đằm thắm, tha thiết, bùi ngùi... thể hiện sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khát khao sống và hạnh phúc trong tình yêu. Chùm thơ “Tự tình” phản ánh những tâm tư tình cảm của Hồ Xuân Hương, của một người phụ nữ đã lỡ tuổi, số phận hẩm hiu,… Đây là bài thơ thứ hai trong chùm thơ ba bài.
Nhà thơ Xuân Diệu trong bài “Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm” đã viết: “Bộ ba bài thơ trữ tình này cùng với bài Khóc vua Quang Trung của công chúa Ngọc Hân làm thành một cụm riêng, làm nên tiếng bước chân. .sự thật của một người phụ nữ nói về những nỗi niềm của chính mình trong cuộc đời của mình trong văn học cổ điển Việt Nam…” Ông nhận xét thêm về câu thơ, giọng điệu của bài thơ: “…trong bộ ba bài thơ tình cảm này, bên cạnh bài thơ Nếu bài thơ còn là “hứa” còn vần “om” là oán, thì vần “on” này là mong, chon von”.
“Đêm khuya vang tiếng trống gác,
Trơ mặt hồng với nước non.
Chén hương đưa cơn say ngủ yên,
Trăng lưỡi liềm chưa tròn.
Xiên đất rêu thành cục,
Đập chân mây, đá vài hòn.
Mệt mỏi của mùa xuân, mùa xuân một lần nữa,
Một mảnh tình san sẻ con ơi!”.
Ở hai trong ba bài thơ, nữ sĩ nói về cảnh khuya, tiếng canh khuya. “Tự tình” nàng vi “Tiếng gà gáy trên bom đạn – Nỗi uất hận bao trùm khắp nơi”. Ở bài thơ này cũng vậy, đêm khuya cô thức, hay thao thức suốt đêm, tâm trạng rối bời. Tiếng trống vọng từ chòi canh xa như giục thời gian trôi nhanh, tuổi người phụ nữ trôi qua mau: “Canh khuya vang tiếng trống canh”. “Hồng nhan” là mặt hồng hào, chỉ đàn bà. “Trơ” có nghĩa là đờ đẫn, trơ ra, chai lì, mất hết cảm giác. “Nước non”: chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội.
Câu thơ: “Mặt đỏ với nước non” thể hiện một tâm trạng: con người buồn đau, giờ đây nét mặt trở nên trơ ra trước cảnh vật, trước cuộc đời, như gỗ và đá, mất hết cảm giác. Nỗi đau buồn đã lên đến cực độ. Từ “sự” kết hợp với từ “hồng nhan” làm cho giọng thơ trầm xuống, làm nổi bật thân phận, thân phận, tiền định vốn đã quá éo le. Ta có cảm giác tiếng trống canh khuya, thời gian như cơn gió thoảng qua cuộc đời, lướt qua số phận và thân phận thi nhân. Con người ấy đang than thở rằng số phận đã có một tuổi trẻ đáng tự hào: “Thân em vừa trắng vừa tròn”, có đức hạnh của một “trai có tâm”, lại có tài mà nay lại lâm cảnh khốn khó. đêm cay đắng. Qua đó, ta thấy chính xã hội phong kiến lúc bấy giờ chính là tác nhân làm cho khuôn mặt hồng nhan teo tóp, khô héo.
Đằng sau hai câu kết là những tiếng thở dài ngán ngẩm. Cố gắng vùng vẫy để thoát ra, thoát ra khỏi nghịch cảnh, nhưng đâu có dễ! Tiếp theo là hai câu thực:
“Một chén hương đưa say cho tỉnh,
Trăng lưỡi liềm còn chưa tròn.”
Nghệ thuật rất có thần: “Tuyệt cốc” có “trăng”, trên có “hương”, dưới có “bóng”, đặc biệt ba chữ “say mới tỉnh” và “khuyết vô tròn” đăng đối, đối đáp từng câu. khác làm nổi bật bi kịch của người phụ nữ dở dang, cô đơn. Tôi muốn mượn chén rượu để an ủi lòng mình, nhưng vừa nâng chén rượu lên môi, hương thơm đã thoang thoảng vào mặt, vào mũi. Tưởng uống cho say để quên bao nhiêu buồn, nhưng càng uống lại càng tỉnh. “Say để rồi say lại tỉnh”, cái vòng luẩn quẩn đó về số phận của nhiều người phụ nữ đương thời, trong đó có Hồ Xuân Hương như một sự bất công. Buồn cho thân phận, bao đêm dài đợi chờ mà tuổi thì ngày một “bóng đêm”. Hy vọng chờ đợi. Khi nào trăng non sẽ "tròn"? Hạnh phúc đến bao giờ mới vẹn tròn, trọn vẹn? Kỳ vọng gắn liền với khao khát. Càng cô đơn càng đợi, càng chờ càng buồn, đó là bi kịch của những người phụ nữ đã quá tuổi lỡ thời, tình duyên ngang trái, trong đó có Hồ Xuân Hương.
Ở hai câu trong bài, tác giả lấy cảnh để ngụ ý tình. Đây là hai câu thơ tả cảnh “lạ lùng” được viết vào lúc nửa đêm trong tâm trạng chán chường, buồn bã:
“Xiên đất rêu thành cục,
Phá vỡ chân của những đám mây và đá."
Bài thơ được kết cấu tương phản để làm nổi bật tính chất mãnh liệt, quyết liệt của cuộc kháng chiến. Từng sợi rêu mềm đến mức có thể “xiên đất”! Lạ là chỉ rải rác “đá vài hòn” mà cũng có thể “đè mây” mới là lạ! Hai câu thơ trước hết cho ta thấy thiên nhiên có một sức sống tiềm ẩn đang bị kìm nén đã bắt đầu trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ. Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ có màu sắc, có đường nét, có hình khối mà còn có tấm gương, thái độ, hành động, còn “xiên ngang…”, còn “xuyên”… mọi chướng ngại, thế lực. Xuân Hương tự tin, yêu đời. Người đó đang trải qua nhiều bi kịch và vẫn cố gắng đương đầu với cuộc sống. Phản ứng mạnh mẽ, quyết liệt nhưng hiện thực vẫn chua chát. Đêm khuya, giữa thiên nhiên trù phú, xung quanh là bóng tối mênh mông, người đàn bà ủ rũ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà trong ca khúc "Tự tình", nữ ca sĩ ngậm ngùi viết:
“Mõm không khum mà cũng khum,
Tại sao chuông không kêu, tại sao om?”.
Nỗi đau của cả thế giới như dồn lại trong trái tim người đàn bà cô đơn. Mong muốn được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như bao người phụ nữ khác. Nhưng “bạc mặt”! Đêm đã khuya, người đàn bà trằn trọc không ngủ được, buồn bã, cô đơn, thiếu vắng tình yêu, xuân đi xuân về nhưng tình yêu chỉ là “sẻ cùng con”. đành chấp nhận tình thế:
“Hết xuân rồi, xuân lại về,
Một mảnh tình san sẻ con nhỏ”.
Xuân qua, xuân về, nhưng với người phụ nữ, “năm nào cũng như đuổi xuân đi”... Từ “chán” nói lên nỗi đau, nỗi buồn của người phụ nữ đã lỡ tuổi, đang trải qua giai đoạn khủng hoảng. mỏi mòn, chờ đợi. Tình yêu thương tưởng chừng như đứt lìa, vỡ ra thành nhiều “mảnh”, nhưng cay đắng thay chỉ “sẻ chút con”. Bài thơ là một lời than thở tủi thân. Đây có phải là lần thứ hai Hồ Xuân Hương bị hoàn cảnh? Tình đã vỡ thành “mảnh” và được “sẻ”, có “bé” thành “con”. Từng câu chữ như những giọt nước mắt. Câu hát, tâm trạng này càng được nữ ca sĩ làm rõ hơn trong ca khúc Cưới nhau lấy chồng:
“Những người đắp chăn, những người lạnh giá,
Chém cha cả đời lấy nhau,
Năm là mười hay không,
Thậm chí không đến một vài tháng!.".
Tóm lại “Tự thương” là lời than thân, tủi thân, xót xa cho thân phận, số phận của mình. Càng cô đơn thức càng buồn. Càng buồn, càng khao khát được sống trong hạnh phúc trọn vẹn. Hiện thực nặng nề, cay đắng bủa vây khiến khuôn mặt lộ ra, “trơ” với nước non, với đời. Người đọc đồng cảm sâu sắc với niềm khao khát sống và hạnh phúc của ca nữ và những người phụ nữ trong xã hội cũ. Giá trị nhân văn là nội dung sâu sắc nhất của chùm thơ tình” của Hồ Xuân Hương.
Cách dùng từ rất đặc sắc, độc đáo thể hiện phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương: “trơ mặt đỏ”, “say rượu”, “khuyết tròn”, “xéo”, “đập nát”, “chán chường”. đau”, “lại”, “bé con”,... Ngôn từ sắc sảo, cảnh vật thanh tao, diễn tả hết những đau khổ éo le của duyên phận.Qua đoạn thơ này càng thấy rõ Hồ Xuân Hương đã đưa ngôn ngữ dân gian, đời thường vào ngôn ngữ vào lời ca, chuẩn hóa và Việt hóa thể thơ bảy chữ “Đường luật”, Bà xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm” của nền thơ ca nước nhà.
Đây là bài tập làm văn Phân tích bài thơ Tự tình , Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!
Xem thêm: ý nào sau đây không đúng với ngành dịch vụ của nhật bản
Bình luận