phân tích bài thơ sang thu

tập làm văn phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh lớp 9 bao gồm dàn ý phân tích bài thơ Sang thu và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh phân tích bài thơ Sang thu hay nhất.
Phân tích bài thơ Sang thu

Dàn ý phân tích bài thơ Sang thu

1. Mở bài

– Giới thiệu chủ đề mùa thu trong thơ
– Giới thiệu bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh
– Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: Nhịp nhàng, thong thả, mượt mà, trầm lắng và một chút suy tư… thể hiện bức tranh mùa thu trong trẻo, đáng yêu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ.

Bạn đang xem: phân tích bài thơ sang thu

2. Cơ thể

khổ thơ 1: Cảm nhận ban đầu của nhà thơ về mùa thu của đất trời.

Một. Thiên nhiên được cảm nhận từ cái vô hình

+ Hương ổi trong gió se se (lạnh khô). “Hương ổi” là một mùi hương đặc biệt của mùa thu xứ Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín.

+ Từ “pha”: Động từ có nghĩa là tỏa vào, hòa quyện -> gợi hương ổi nồng nhất, thơm quyến rũ, quyện vào làn gió ngọt ngào của mùa thu, lan tỏa khắp không gian tạo nên hương thơm ngào ngạt - hương thơm nồng nàn của những vườn cây trái ngọt xum xuê ở nông thôn Việt Nam.

+ Sương chùng chình: Những giọt sương li ti treo lơ lửng như làn sương mỏng nhẹ trôi, “cố ý” trôi chậm lại một cách chậm rãi, nhẹ nhàng, chuyển dần sang thu. Sương sớm như có linh hồn

b. cảm xúc của nhà thơ

+ Kết hợp một loạt từ láy: “Chợt, chợt, hình như” diễn tả tâm trạng bất ngờ, cảm giác thất thần trước một thoáng mùa thu đến bất ngờ. Nhà thơ giật mình, thoáng chút bối rối, hình như trong cảm giác của mình vẫn còn điều gì đó chưa rõ ràng. Vì đó là những cảm giác nhẹ nhàng, thoáng qua. Hay vì quá đột ngột nên tác giả không nhận ra? Tâm hồn nhà thơ thay đổi nhịp nhàng theo sự chuyển mùa của cảnh vật. Trong mỗi cảnh sắc của mùa thu, tâm hồn con người thấp thoáng: khắc khoải, khắc khoải, hoài niệm, bâng khuâng...

Câu 2: Hình ảnh thiên nhiên mùa thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen thuộc tạo nên một bức tranh mùa thu trong trẻo đẹp đẽ:

+ Dòng sông quê hương mềm mại, hiền hòa chảy thong thả, thanh bình

–> gợi vẻ đẹp dịu êm của bức tranh thiên nhiên mùa thu.

+ Đối lập với hình ảnh trên, những chú chim chiều tối bắt đầu bay về phương Nam tránh rét trong ánh hoàng hôn.

+ Mây được miêu tả qua sự liên tưởng độc đáo với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết:

“Có những đám mây mùa hè. Siết nửa người vào thu” -> Gợi một đám mây mỏng, nhẹ, dài của mùa hạ còn sót lại như hoài niệm. Vẻ đẹp của mùa hè chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu, mà đó là vẻ đẹp của sự chuyển mùa được tạo nên từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm say sưa vào thời điểm giao mùa này. Trong bài “Chiều sông Thương” ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Mây qua Việt Yên. Phủ bóng Bố Hạ.”

c. Câu 3: Thiên nhiên vào thu cũng được gợi tả qua những hình ảnh cụ thể: Nắng – mưa

– Nắng – hình ảnh đặc trưng của mùa hè. Nắng cuối hè vẫn gay gắt, vẫn chói chang nhưng đã nhạt dần, yếu đi vì gió se se, không chói chang, gay gắt, gây gắt.
Mưa cũng đã bớt. Những cơn mưa mùa hè thường đến bất chợt rồi đi bất chợt. Từ “vai” có giá trị gợi hình, gợi tả sự thưa dần, nhỏ dần, rồi dứt dần của những cơn mưa rào bất chợt, bất chợt của mùa hè.
– Ẩn dụ: “Giông tố cũng bớt ngạc nhiên. Trên những cây cổ thụ"

+ Ý nghĩa hiện thực: Hình ảnh tiếng sấm thường xuất hiện bất chợt gắn với những cơn mưa rào chỉ có trong mùa hạ (tiếng sấm cuối mùa, tiếng sấm cuối hè cũng thưa dần, thu ít đi).

+ Ý nghĩa ẩn dụ: Tiếng sấm: Những tiếng vang khác thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Cây già” khắc họa những con người từng trải, vượt qua khó khăn, thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người trở nên ổn định hơn.

=> Gợi cảm giác tiếc nuối

3. Kết luận

“Bài ca mùa thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà còn khắc sâu tình cảm quê hương trong lòng người.

– Tả mùa thu với sự chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đóng góp

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Sang thu

Phân tích bài thơ Sang thu – bài 1

Phân tích bài thơ Sang thu
Mùa thu luôn là đề tài khiến bao thi nhân say mê bởi đó là mùa của những gì dịu dàng và êm dịu nhất, mùa của những khoảng lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến giản dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ, thật trữ tình và trái tim thi nhân cũng thật đa tình. Đoạn thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kì diệu của đất trời, của lòng người.

“Sang thu” là bài thơ nhẹ nhàng tái hiện sự chuyển mùa thật tinh tế, đất trời vào thu có chút bối rối, chút ngập ngừng và trên hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự đổi thay của đất trời. Mùa thu đến, mùa thu mang đến cho con người những giai điệu êm dịu nhất.

Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thật bình dị và gần gũi, không phải hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ phẳng lặng, cũng không phải những mùa lá đổ. Mùa thu trong thơ ông là “hương ổi”, là mùi hương đặc trưng của làng quê Việt Nam khi tiết trời sang thu.

Chợt nhận ra hương ổi
Ném vào gió

Phải tinh tế lắm, khéo léo lắm tác giả mới nhận ra hương thơm ấy rất dịu dàng và có thể bị gió cuốn đi bất cứ lúc nào. Cụm từ “chợt nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khám phá ra một điều gì đó đẹp đẽ. Đây là câu diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã ập đến đầu ngõ chỉ còn “hương ổi”, một mùi hương đồng nội quen thuộc khiến những người con xa quê khó lòng quên được. Hương ổi đã “thổi” vào “làn gió” dịu nhẹ, se se của đầu thu. Động từ “pha” đã làm toát lên cái thần của mùa thu và hương ổi. Nó thể hiện sự gắn bó, gắn bó giữa hương ổi với gió mùa đầu hạ.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về những điều bình dị quanh ta.

Sương giăng lối ngõ
Thu dường như đã về

Hai câu thơ rất duyên dáng, rất tinh tế mà rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của thời tiết chuyển mùa. Hình ảnh “sương trôi đầu ngõ” khiến người đọc liên tưởng đến cảnh sương giăng đầu ngõ. Từ láy được sử dụng rất đắt, toát lên cái thần thái của mùa thu, không vội vã, hồ hởi nhưng luôn tạo ra sự mông lung, mơ hồ nhất. Tác giả phải thốt lên là “hình như”, không rõ, không chắc, nhưng thực ra, tác giả tự khẳng định rằng mùa thu đã thực sự đến.

Có lẽ mùa thu đã đến, là mùa thu của đất trời và là mùa thu của lòng người nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai, dường như mùa thu đã hiện rõ từng đường nét trong cảm nhận của tác giả:

Dòng sông thoải mái
Đàn chim bắt đầu vội vã
Có những đám mây mùa hè
Bóp một nửa của bạn để rơi

Nước thu lên theo mùa “xuôi chèo mát mái”, những chú chim trời bắt đầu “vội vã” bay đi. Thiên nhiên khi thu đến có chút vội vã, gấp gáp và nặng nề hơn nhưng vẫn giữ được cái hào quang đặc trưng nhất. Những đường nét của mùa thu hiện lên thật rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ đầu. Đây cũng là một quá trình, một sự biến đổi trong tự nhiên và trong nhận thức của tác giả. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “mây mùa hạ” như “chen” vào mùa thu. Tài hoa, khéo léo đến thế, và ông như rung động trước mùa thu, khí trời mùa thu, nhiều hương sắc đến nỗi tưởng tượng ra cảnh mây trời cao như đang chuyển động theo nhịp điệu của mùa thu.

Từ “vắt” được sử dụng rất khéo, rất đặc sắc diễn tả sự chuyển mùa của mùa thu rất nhịp nhàng, nhịp nhàng. Mùa thu có gì đó độc đáo, tinh nghịch và không kém phần quyến rũ qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã thực sự đến, mùa thu mang theo những gì thuần khiết nhất, dịu dàng nhất và êm dịu nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua thơ Hữu Thỉnh thật mềm mại, dịu dàng và uyển chuyển. Đó chính là tài năng của tác giả, tài năng dùng từ để vẽ nên những bức tranh.

Điều bất ngờ nằm ​​ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến, đất trời đã có những đổi thay mà con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn đời người:

Còn lại bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã tạnh
Sấm sét cũng ít bất ngờ hơn
Trên những cây cổ thụ

Mùa thu có nắng, một thứ nắng dịu dàng và trong lành, một chút se lạnh của những cơn gió mùa đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm tư hơn. Tiếng sấm không còn làm người ta giật mình mà lặng đi trong những hàng cây cổ thụ. Tác giả đã đúc kết những chiêm nghiệm, trải nghiệm của một đời người qua sự liên tưởng đến “cây cổ thụ”. Tiếng sấm và hàng cây trong hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải đã bước qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, bồng bột. Ở giai đoạn người ta “già” hơn, mọi thứ cần chắc chắn và trang nghiêm hơn, trầm lắng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để miêu tả cuộc sống của con người ở tuổi xế chiều, cũng như mùa thu; Có lẽ mùa thu là mùa của những người không còn trẻ nữa. Nhịp điệu của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu thật nhẹ nhàng và yên bình. Có lẽ khi con người ta bước qua cái tuổi bồng bột, sẽ có lúc cần bình tĩnh nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều đáng suy ngẫm trong cuộc đời này.

Bài thơ “Sóng thu” độc đáo, thú vị, cách cảm nhận tinh tế, nhẹ nhàng, những suy ngẫm sâu sắc của Hữu Thỉnh đã khiến người đọc có cái nhìn khái quát, mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp lại những trang sách, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn quanh quẩn trong tâm trí mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Sang thu – bài 2

Phân tích bài thơ Sang thu
Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho thi nhân. Mỗi người có một cách nhìn và cách miêu tả riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, màu áo phai và tiếng lá vàng của con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp thêm một diện mạo mới cho tập thơ mùa thu của dân tộc. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ mùa thu của ông mang một cảm giác bâng khuâng, lưu luyến trước cảnh đất trời trong trẻo đang chuyển mình nhẹ nhàng. Điều này được thể hiện rõ qua ca khúc Sang thu được ông sáng tác vào cuối năm 1977.

Đoạn thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển mùa từ hạ sang thu.

Khác với các nhà thơ khác, mùa thu được cảm nhận qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón mùa thu bằng một hương vị khác: Ổi.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Tung bay trong gió"

“Chợt nhận ra” là trạng thái bâng khuâng, như vô tình, sững sờ khi cảm nhận giữa những âm thanh, hương vị, sắc màu đặc trưng của đất trời vào thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu chuyển mùa từ ngọn gió hiu hiu, mát lành mang theo hương ổi thơm nồng. “Phở” là động từ tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi nước trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương. Hương thơm ngào ngạt, nồng nàn chỉ là một mùi hương thoang thoảng nhè nhẹ đưa trong gió đầu thu nhưng cũng đủ đánh thức cảm xúc trong lòng người.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận được cả sương thu trong tiết trời chuyển mùa. Sương dường như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc của mùa thu nên chẳng muốn dời chân:

“Sương trôi qua ngõ
Thu như đã về”

Từ tượng hình “lơ đãng” gợi cảm giác lưu luyến ngập ngừng, khiến ta có cảm giác dung dị, gợi lên một khung cảnh mùa thu sống động trong sự tĩnh lặng, thong dong, và bình yên. “Chậm chạp” là sự ngắt nhịp, chuyển động chậm dần hay đó cũng chính là sự rung động trong tâm hồn thi nhân? Một chút ngỡ ngàng, một chút bùi ngùi, nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Dường như” là một điệp ngữ gợi tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện ra sự hiện diện của mùa thu. Sự hiện diện của sương sớm cùng với hương ổi đã làm nhà thơ giật mình. Không phải là những hình ảnh đã trở nên thông thường nữa, mà là những chi tiết mới và bất ngờ. Có lẽ đối với Hữu Thỉnh, hương ổi rất quen thuộc với người Việt Nam nhưng lại rất xa lạ với những vần thơ được tác giả đưa vào một cách rất tự nhiên.

Sau đó, mùa thu được quan sát trong không gian lớn hơn, nhiều lớp hơn:

“Sông êm đềm
Những chú chim bắt đầu vội vã và
Có những đám mây mùa hè
Ném một nửa mình vào mùa thu"

Nếu như ở khổ thơ một, mùa thu chỉ là một sự dự đoán xen lẫn chút ngỡ ngàng thì ở khổ thơ này, tác giả có thể khẳng định: Mùa thu đã đến. Mùa thu ở khắp mọi nơi, rất hữu hình và cụ thể. Dòng sông không còn cuộn trào dữ dội như những cơn mưa ngày hè mà chảy êm đềm, yên bình. Mọi chuyển động dường như chậm lại phần nào, chỉ có những chú chim bắt đầu vội vã. Tiết trời mùa thu se lạnh khiến họ phải chuẩn bị những chuyến bay để chống lại cái lạnh khi mùa đông đến. Phải thật tinh tế mới có thể nhận ra tiếng vội vã của đàn chim bay vì mùa thu mới bắt đầu, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ được nâng dần từ dòng sông, rồi đến bầu trời rộng lớn:

“Có những đám mây mùa hạ
Ném một nửa mình vào mùa thu"

Cảm giác chuyển mùa được Hữu Thỉnh miêu tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu vừa chớm sang, nên những đám mây mùa hè thong dong, duyên dáng “ép nửa mình vào mùa thu”. Mây như dải lụa mềm trên bầu trời còn đang mùa hè, một nửa đã ngả sang thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế trở nên sống động và biểu cảm hơn.

Ở khổ thơ cuối, khoảnh khắc chuyển mùa không còn được nhà thơ thể hiện bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự chiêm nghiệm, chiêm nghiệm:

“Còn bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã tạnh
Sấm sét cũng ít bất ngờ hơn
Trên những cây cổ thụ"

Nắng cuối hè vẫn gay gắt, vẫn chói chang nhưng nhạt dần. Những ngày chuyển mùa này đã bớt đi những cơn mưa xối xả. Trời vẫn nắng, vẫn mưa và sấm sét như mùa hè, nhưng mức độ đã khác. Lúc này, những cơn mưa rào bất chợt đã không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi nhiều liên tưởng, liên tưởng thú vị.

“Sấm sét cũng bớt bất ngờ
Trên những cây cổ thụ"

Giọng thơ trầm hẳn, câu thơ không chỉ gượng gạo kể lể, là cảm nghĩ mà còn là chiêm nghiệm, chiêm nghiệm. Cụm từ “cây cổ thụ” gợi nhiều liên tưởng. Đời người cũng giống như một cái cây, cũng có non, có trưởng thành và có già. Phải chăng tuổi cây là tuổi đời người. Hình ảnh vừa mang ý nghĩa hiện thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Sự trưởng thành và điềm tĩnh của cây cối trước giông bão mùa thu cũng là sự trải nghiệm và trưởng thành của con người khi về già. Phải chăng mùa thu của đời người là sự kết thúc của những tháng ngày sôi nổi của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới sâu lắng, lắng đọng và vững vàng hơn. Ở cái tuổi “đã sang thu”, con người không khỏi bỡ ngỡ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc sống.

Trước đây, sắc thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi đầu ngõ, tiếng lá khô xào xạc… Và ta cứ ngỡ chỉ có những điều đó mới là nét đặc trưng của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một hương ổi, một làn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những điều gần gũi ấy cũng làm nên nét riêng của mùa thu Việt Nam và đây chính là điều làm nên sức hút của “Sang thu”.

Bài thơ kết thúc theo trình tự tự nhiên. Đó cũng chính là diễn biến cảm xúc của tác giả lúc vào thu. Đoạn thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa - thu ở làng quê Bắc Bộ. Thơ Hữu Thỉnh có vẻ gì đó sâu sắc, kín đáo rất phù hợp với cách nghĩ, cách nói của người dân quê. Đoạn thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế giàu tình yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý sâu xa, hình ảnh giản dị mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp với nhiều cảm xúc nhạy cảm. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta thấy yêu đất nước hơn, càng thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Phân tích bài thơ Sang thu – bài 3

Phân tích bài thơ Sang thu
Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, gia nhập Binh chủng Tăng - Thiết giáp, trở thành cán bộ văn hóa, được huấn luyện trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có những bài thơ đặc sắc về con người và cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác cuối năm 1977, in lần đầu trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của đất trời và là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của làng quê đồng bằng Bắc Bộ lúc chuyển mùa từ hạ sang thu.

Chợt nhận ra hương ổi
Ném vào gió
Sương giăng lối ngõ
Thu dường như đã về

Dòng sông thoải mái
Đàn chim bắt đầu vội vã
Có những đám mây mùa hè
Bóp một nửa của bạn để rơi

Còn lại bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã tạnh
Sấm sét cũng ít bất ngờ hơn
Trên những cây cổ thụ.

Từ cuối hè sang đầu thu, đất trời có những chuyển biến nhẹ nhàng nhưng rõ rệt. Những đổi thay ấy được Hữu Thỉnh cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi nhân và thể hiện qua những hình ảnh thơ giàu sức biểu cảm.

Ở khổ thơ đầu, dấu hiệu của mùa thu không giống như Ngô như Diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu như trong thơ cổ; cũng không Hàng liễu đứng đưa tang, Tóc buồn xõa xuống; hàng nghìn dòng như trong thơ Xuân Diệu hai phần ba thế kỷ trước. Biết nhiều về nông thôn, Hữu Thỉnh đã đưa vào thơ những hình ảnh quê hương giản dị, mộc mạc nhưng rất thân thuộc.

Chợt nhận ra hương ổi
Ném vào gió
Sương giăng lối ngõ
Thu dường như đã về

Đây là cảnh một buổi sớm mùa thu ở một làng quê Bắc Bộ. Trước hết, nhà thơ chợt nhận ra tín hiệu chuyển mùa từ ngọn gió mang theo hương ổi chín. Gió se se là loại gió nhẹ, hơi se lạnh hay còn gọi là gió heo may. Hương ổi gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ, hương vị quê hương đã thấm đẫm trong tâm trí nhà thơ và mỗi độ thu về lại trở thành chất gợi nhớ.

Tiếp đến là hình ảnh sương giăng trước ngõ. Mùa thu, tiết trời mát mẻ. Thường có sương vào sáng sớm và chiều tối. Sương cũng là một trong những dấu hiệu của mùa thu. Sương giăng qua ngõ như nhắc lòng người đang mong mùa thu đã về. Nhà thơ vừa ngạc nhiên vừa sung sướng, thầm thốt lên: Hình như mùa thu đã về.

Hai chữ bỗng và như tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước cảnh thu - nguồn cảm hứng bất tận của thơ, ca, nhạc, họa.

Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người, tâm hồn của mình. Mở đầu là khứu giác: Chợt nhận ra hương ổi thoang thoảng, thoang thoảng trong gió. Tiếp theo là phần mở rộng trực quan để nhận tín hiệu đến. Từ làn sương còn vương vấn trong những hàng cây, lũy tre đầu ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ giờ trôi nhẹ nhàng, êm đềm. Trên nền trời thu trong xanh, những chú chim dường như cũng vội vã hơn.

Cảm giác về sự chuyển mùa được nhà thơ diễn tả bằng một hình ảnh bất ngờ đầy chất thơ: Có đám mây mùa hè, Nửa người tôi sang thu. Đây là hình ảnh độc đáo miêu tả cảnh mùa hạ chưa tàn mà mùa thu đã đến. Ấn tượng về sự ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn nguyên vẹn, nhưng nỗi buồn man mác trước sự dịu dàng, mát lành của mùa thu đã chầm chậm đi vào tâm hồn từ lúc nào không biết.

Cái nắng cuối hè vẫn còn đó nhưng đã bớt gay gắt và rực rỡ hơn, những cơn mưa xối xả cũng đã thưa dần:

Xem thêm: Những lý do bạn không nên bỏ qua giày Sneaker

Còn lại bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã tạnh

Nhà thơ bộc lộ cảm xúc rất thành công bằng các từ gợi tả cảm giác, trạng thái: chợt, hít hà, chùng chình, dường như; Cả bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của đất trời lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh tế của trái tim người nghệ sĩ. Chính điều đó đã làm cho từng câu chữ, từng hình ảnh bừng lên sức sống.

Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng hay, đẹp nhưng mang nét riêng của thời khắc chuyển mùa - được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu cuối bài thơ:

Sấm sét cũng ít bất ngờ hơn
Trên những cây cổ thụ.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Bậc 1 diễn tả hiện tượng sấm chớp và hình ảnh cây cối trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa ngụ ngôn thông qua hình ảnh nghệ thuật ẩn dụ. Sấm sét là những tiếng vang khác thường của ngoại cảnh, của cuộc sống; Hàng cây già nghĩa là người đã từng trải.

Đến mùa thu, những cơn mưa giông bất ngờ và dữ dội của mùa hè đã lắng xuống. Cây cối không còn giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh hiện thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời. mạng sống.

Bằng sự cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thực cùng với nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời khắc giao mùa hè thu ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ. . Với bài “Sang thu”, Hữu Thỉnh đã tô thêm một nét mùa thu mang dấu ấn riêng của mình vào tập thơ mùa thu hay và đẹp của thi ca Việt Nam.

Phân tích bài thơ Sang thu – bài 4

Phân tích bài thơ Sang thu
"Sang thu" là một bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người yêu thích. Bài thơ gồm ba khổ thơ; Mỗi khổ thơ bốn câu là một mùa thu đẹp đẽ, êm đềm của đất trời được tạo nên trong buổi chớm thu - mùa thu mới đến, mùa thu chợt đến.

Bài ca mùa thu thể hiện một phong cách nghệ thuật tinh tế, nhẹ nhàng, tài hoa, thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi sớm mai. sưu tầm. Đối tượng cảm nhận là phong cảnh mùa thu ở làng quê miền Bắc nước ta.

Đối với nhà thơ Xuân Diệu, tín hiệu đầu tiên của mùa thu là màu “phai” của những chiếc lá được bàn tay thiên nhiên “đan dệt” giữa ngàn cây:

“Mùa thu đến, mùa thu đến
Với những quả mơ phai màu dệt bằng lá vàng.”

(Đây là mùa thu tới)

Nhưng với Hữu Thỉnh, đó là “hương ổi” của vườn quê được “hít” trong làn gió thu se lạnh. Hương vị nồng nàn ấy trong khu vườn mà tuổi thơ của mỗi chúng ta sẽ mang mãi trong tâm hồn, trong suốt cuộc đời:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Hòa vào cơn gió nhẹ.”

“Pha” có nghĩa là mạnh và tỏa thành dòng (Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không miêu tả mà chỉ gợi và cho người đọc những liên tưởng với màu vàng óng, hương thơm thoang thoảng tỏa ra từ những trái ổi chín ở quê vào những ngày cuối hè đầu thu. Bởi trong gió thu se se lạnh, hương ổi mới thêm nồng nàn, phảng phất vào đất trời, vào hồn người.

Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn, Nguyễn Đình Thi… đã viết rất hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một vẻ đẹp đằm thắm về hương mùa thu quê hương. :

“Buổi sáng trong lành mát mẻ như buổi sáng xưa
Gió thu thổi hương cốm mới…”

(Đất Nước – Nguyễn Đình Thi)

“Hương ổi” trong bài “Sang thu” là nét mới lạ trong thơ Hữu Thỉnh, thấm đượm màu sắc dân dã.

Sau “hương ổi” và “gió se” nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải “Sương thu lạnh lùng… Khói thu xây thành” trong “Sáng thu” của Tản Đà. Cũng không phải là sương lạnh và tiếng thu buồn của ngày xưa: “Cành đầy sương, tiếng mưa phun” (Chinh phụ ngâm). Đó là giọt sương thu mang tâm trạng “lặng lẽ” cố tình đi chậm lại để kéo dài thời gian:

“Sương trôi qua ngõ
Hình như Thu đã về.”

sương thu đã được nhân hóa; Hai từ “liêu xiêu” gợi tả rất thi vị bước đi chậm rãi của mùa thu. Nếu hai từ “chợt nhận ra” diễn tả cảm xúc ngỡ ngàng thì hai từ “dường như” lại diễn tả sự phỏng đoán về một sưu tầm mơ hồ vừa được khám phá, cảm nhận.

Từ “se” gieo vần với từ “về” (vần ta, vần ta, vần ta) đã góp phần làm giàu vần, nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mang, gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sóng thu” được mở rộng, ở độ cao, rộng của bầu trời có chim bay, mây trôi, ở độ dài của dòng sông qua khổ thơ tiếp theo:

“Sông êm đềm
Đàn chim bắt đầu vội vã
Có những đám mây mùa hè
Ném một nửa mình vào mùa thu."

Dòng sông mùa thu ở miền Bắc nước ta nước trong xanh, chảy êm đềm: “Dòng sông trắng xóa, phẳng lặng” (“Cảnh chiều thu” - Bà Huyện Thanh Quan). Sông đầy nên “thoải mái”, trôi chầm chậm như cố ý chậm, thiếu khẩn trương, mất nhiều thời gian… Chim bay “vội” tức là đàn cu gáy, đàn cu gáy. nhân sâm, bầy chim. chuyển mùa, tránh rét, bay từ cực bắc vào nam. Trong số những đàn chim bay “vội vàng” ấy có đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nhắc đến trong “Thu vịnh”:

"Một giờ trên không, con ngỗng nào?"

Dòng sông, cánh chim, mây thu đều được nhân hoá. Bức tranh mùa thu trở nên hữu tình, đầy chất thơ. Hữu Thỉnh không dùng những từ như: lững thững, bồng bềnh, lênh đênh, trôi nhẹ… mà dùng từ vắt vẻo.

“Có những đám mây mùa hạ
Ném một nửa mình vào mùa thu."

Mây như giãn ra, vắt lên, nằm ngang trên trời, buông xuống. Đoạn thơ tả mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo: cách chọn từ, dùng từ rất sáng tạo.

Khổ thơ cuối thể hiện phần nào cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ khi nhìn cảnh những ngày đầu thu:

“Còn bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã tạnh
Sấm sét cũng ít bất ngờ hơn
Trên những cây cổ thụ"

Nắng, mưa, sấm sét, những hiện tượng thiên nhiên trong thời khắc giao mùa: hạ - thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ: còn, đã lắng xuống, cũng đã bớt ngỡ ngàng diễn tả rất đúng thời gian tồn tại, tồn tại của sự vật, thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, sấm đầu thu. Mùa hè vẫn đang kéo dài. Nắng hè, mưa giông, sấm sét vẫn vương vấn niềm tin và đất trời. Nhìn cảnh sắc mùa thu lúc giao mùa, từ khung cảnh ấy, nhà thơ ngẫm nghĩ về cuộc đời. “Giông tố” và “cây cổ thụ” là những ẩn dụ tạo nên ý nghĩa của bài hát “Ngày mai”. Nắng, mưa, sấm sét là những biến động của tự nhiên, nhưng cũng tượng trưng cho những thay đổi, biến chuyển, những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Hình ảnh “cây càng già” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một lớp người đã từng trải qua và được trui rèn trong bao gian khổ, khó khăn:

“Sấm sét cũng bớt bất ngờ
Trên những cây cổ thụ"

Hữu Thỉnh sáng tác bài thơ “Sang thu” vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Vào thời điểm đó, nước ta tuy đã độc lập, thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới về kinh tế - xã hội. Hai câu kết của bài thơ có ý nghĩa khẳng định bản lĩnh gan góc, giỏi giang của quân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn đó.

“Sang thu” là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, in trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” xuất bản tháng 5 năm 1985. Biết bao cảm xúc trào dâng trong những vần thơ đẹp, đằm thắm, nên thơ. Nhà thơ không dùng bút màu để vẽ cảnh mùa thu rực rỡ sắc màu. Chỉ là vài nét chấm phá, miêu tả ít mà gợi nhiều, nhưng tác giả đã làm nổi lên một tâm hồn nhẹ nhàng, trong trẻo, tĩnh lặng, bao la… đầy chất thơ.

Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, cách lựa chọn từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh đã để lại ấn tượng đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Thể thơ ngũ ngôn trong “Sang thu” thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới, trầm lắng và hồn nhiên. “Ngày mai” là tiếng lòng bao dung, gửi gắm, báo tin mùa thu của quê hương đất nước; một âm hưởng mùa thu ấm áp, tha thiết.

Phân tích bài thơ Sang thu – bài 5

Phân tích bài thơ Sang thu
Cuối năm 1977, chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, vào một buổi chiều mùa thu, tôi ra ngoại thành Hà Nội, thăm vườn ổi chín mọng, hương vị dịu nhẹ... một chút ngỡ ngàng, một chút xao xuyến. Hữu Thỉnh tức cảnh mê. Trong buổi hoàng hôn vàng, bài thơ Sang thu ra đời. Hãy tưởng tượng chúng ta đang cùng nhà thơ đứng giữa vườn ổi ngâm thơ tuyệt vời của mình.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Ném vào gió
Sương giăng lối ngõ
Thu dường như đã về

Dòng sông thoải mái
Đàn chim bắt đầu vội vã
Có những đám mây mùa hè
Bóp một nửa của bạn để rơi

Còn lại bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã tạnh
Sấm sét cũng ít bất ngờ hơn
Trên những cây cổ thụ"

Bài thơ được viết theo thể thơ 5 câu, ngắn gọn, súc tích. Cả bài thơ là một giọng điệu nhẹ nhàng, có lúc trầm lắng, suy tư. Đoạn thơ là sự rung động của tâm hồn nhà thơ trước thiên nhiên khi đất trời sang thu, một bức tranh chuyển mùa tuyệt đẹp.

Mở đầu bài thơ, người đọc có thể nhận ra ngay cảm xúc tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Ném nó vào trong gió."

Từ “bỗng” diễn tả sự đột ngột, đột ngột trong cảm giác. Nhưng chính sự bất ngờ ấy mà thơ mộng, đáng yêu ấy vào một buổi chiều thu trên vùng quê Bắc Bộ, nhà thơ chợt nhận ra điều gì? “Hương ổi thoảng vào gió”. Tại sao hương vị ổi mà không phải hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bức tranh mùa thu hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa thiên nga… nhưng Hữu Thỉnh thì không. Đứng giữa vườn ổi chín vàng, giữa tiết trời cuối hè đầu thu, anh nhận ra vị chua chua ngọt ngọt của ổi chín vàng. Hương vị giản dị, dân dã, đồng nội, rất thân thuộc của quê hương. Nhưng ít người nhận ra sức hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận rất tinh tế, bằng khứu giác và thị giác, nhà thơ chợt nhận ra những dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu về. Chúng tôi thực sự xúc động trước sự “chợt nhận ra” của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải rất gắn bó với thiên nhiên, với quê hương mình nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như vậy?

Dấu hiệu chuyển mùa còn thể hiện qua làn gió thoảng hương ổi chín. Gió se se là loại gió nhẹ, hơi se lạnh hay còn gọi là gió heo may. Những cơn gió se se lạnh, se se, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Chữ “pha” trong câu thơ “Phà vào gió se” mới độc đáo làm sao! Nó diễn tả tốc độ của gió, đồng thời góp phần tạo nên cảm giác bất ngờ: hương ổi sẵn mà chẳng ai để ý, nhưng Hữu Thỉnh chợt nhận ra và rung động trước hương gió đồng nội. .

Không chỉ có hương ổi trong “gió thở”, tiết trời vào thu còn có những bức tranh:

“Sương trôi đầu ngõ”

Từ “chậm chạp” gợi nhiều liên tưởng. Tác giả nhân cách hóa sương mù để thể hiện sự chuyển động chậm chạp có chủ đích của nó. Nó bay qua ngõ, vướng vào hàng rào, hàng cây khô trước ngõ ở đầu làng. Nó mang dáng vẻ thướt tha, yểu điệu của làn sương, bóng dáng của một thiếu nữ hay một cô gái nào đó. Không chỉ vậy, vẻ đẹp của từ “liêu xiêu” còn gợi tâm trạng. Là sương mù dễ dãi hay người đang suy tư hay tâm trạng của tác giả cũng đang “uể oải”?

Khổ thơ đầu kết thúc bằng câu: “Hình như mùa thu đã về”.

“Dường như” không có nghĩa là không chắc chắn mà thể hiện sự ngạc nhiên, bất ngờ và một chút bâng khuâng. Từ ngọn gió đưa hương ổi chín vàng trong vườn đến sự duyên dáng uyển chuyển của làn sương buông hờ hững trước ngõ, tác giả đã nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ nét của thời tiết, thiên nhiên trong khoảnh khắc. của sự chuyển mùa bằng con mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ yêu thiên nhiên, yêu mùa thu gắn bó với cuộc sống nơi thôn dã, của một người lính đã trải qua bao năm tháng chinh chiến. Nếu không có Hữu Thỉnh, liệu ta có cảm nhận được sức quyến rũ của mùa thu, có cảm nhận được tâm trạng của một thi nhân?

Sử dụng hoa quýt
Phượng tím bên sông Thương
Nắng mùa thu đang đẩy
Đã là trăng non với bưởi
Ben cần một con bê đực
Cả chiều sang sông?

(Chiều sông Thương)

Mùa thu mang đậm chất dân gian, làng quê mộc mạc, đậm hơi thở đồng ruộng mà vẫn trong trẻo triết lý.

“Sấm sét cũng bớt bất ngờ
Trên những cây cổ thụ”.

Mưa bớt đi, tiếng sấm mùa hè cũng bớt khi sang thu, cây cối không còn phải giật mình bất chợt. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng hai câu thơ còn mang ý nghĩa ngụ ngôn: “Sấm sét” là những tiếng vang, những tiếng động khác thường của thế giới bên ngoài, của cuộc đời. “Cây già” là những người từng trải, già dặn và họ sẽ vững vàng hơn trước những tác động của ngoại cảnh.

Khi sáng tác Sang Thu, Hữu Thỉnh cùng với dân tộc vừa trải qua những năm tháng ác liệt của chiến tranh. Trận chiến đó giống như một mùa hè nóng bức, bực bội. Sống trong những năm tháng thanh bình, vào một buổi chiều thu thanh bình nơi thôn quê, tác giả cảm nhận được sự thanh thản trong tâm hồn như “dòng sông luôn luôn chảy” bởi xưa nay con người dù muốn cũng không được dễ dàng. , chậm chạp nên dù gặp những thăng trầm của cuộc đời, tác giả vẫn “bình thản đương đầu với nó, không trở ngại nào đánh gục được”. Hai câu thơ chất chứa những suy ngẫm, trải nghiệm về con người và cuộc đời.

Nếu như ở khổ thơ 1, trạng thái cảm xúc của tác giả chỉ là “chợt”, “như thể” thì ở khổ thơ còn lại, sự vận động của mùa thu đã được cụ thể hóa bằng những sắc thái biến đổi của tạo vật. :

“Sông êm đềm
Chim bắt đầu vội vã.”

Tại sao những dòng sông "dễ dàng" và những con chim "vội vàng"? Đây là những cảm nhận rất tinh tế, có cơ sở khoa học nhưng vẫn giàu sức biểu cảm. “Sông êm đềm” vì mùa thu nước sông bắt đầu cạn, chảy chậm lại, không ào ạt như mùa hạ, rất thong dong, chậm rãi. Còn những đàn chim vội vã vì mùa hè chim trú mưa ít có cơ hội kiếm mồi. Bây giờ là mùa thu khô ráo hơn, chúng tranh thủ đi săn tìm thức ăn và trú ẩn tránh rét ở phương Nam khi trời ấm. Hai hoạt động tưởng chừng như đối lập nhau nhưng với lối nhân hóa Hữu Thỉnh đã thổi hồn người vào vật, tác giả đã làm cho dòng sông thêm hữu tình, gần gũi với con người hơn, thể hiện một không gian rộng mở tươi đẹp. hồn thơ.

Những dấu hiệu của mùa thu cũng được miêu tả rất sinh động qua những bức tranh:

“Có những đám mây mùa hạ
Ném một nửa mình vào mùa thu”.

Đây là một sự liên tưởng thú vị, sáng tạo. Mây mùa hè thường có màu xám đen tạo cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong và xanh. “Da ai nhuộm xanh” (Nguyễn Khuyến). Trên thực tế, không có thứ gọi là đám mây. Tại sao có sự phân chia rõ ràng, con mắt có thể nhìn thấy trên bầu trời. Đó là đám mây trong trí tưởng tượng của tác giả. Nhưng chính hình ảnh mùa hè nối liền với mùa thu bằng nửa đám mây bồng bềnh, cũng buông lơi, chùng chình, bồng bềnh trên tầng không khiến người đọc cảm nhận được không gian và thời gian lúc chuyển mùa đẹp đến nhường nào! Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bài thơ và tiêu biểu nhất cho tiết trời mùa thu.

Những biểu hiện nào khác của thời tiết mà các nhà thơ cảm nhận được khi mùa hè chuyển sang mùa thu?

“Còn bao nhiêu mặt trời?
Mưa đã ngớt."

Đại từ tình thái "bao nhiêu" thể hiện số nhiều. Không thể đếm được. Làm sao đếm được nắng, nhưng tác giả cảm thấy cuối hè đầu thu bớt gay gắt và oi ả hơn, những tia nắng cũng bớt rực rỡ hơn và những trận mưa xối xả cũng thưa dần, không những ít đi mà mưa cũng ít dần. .

Hữu Thỉnh cũng có những câu thơ, tứ thơ gần tứ thơ này, nhưng không tài hoa bằng, gây bất ngờ và thú vị. Chẳng hạn như:

Xem thêm: ở nhiệt độ thường kim loại al tác dụng được với dung dịch

“Đi bộ cả ngày
Đêm vẫn chưa muộn."

Mùa thu đến là một mùa nhẹ nhàng, nên thơ, man mác nhưng cũng đầy triết lý, đã tiếp tục hành trình của thơ ca mùa thu dân tộc, góp một âm hưởng mùa thu đằm thắm vào mùa thu quê hương, mang đến cho chúng ta tình yêu quê hương qua vẻ đẹp của mùa thu Việt Nam.

Đây là bài tập làm văn phân tích bài thơ Sang thu, Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!