Tuyển tập những bài văn mẫu Xuân Chín hay nhất, đặc sắc nhất được bài viết tổng hợp đầy đủ. Giúp các em củng cố kiến thức và biết cách làm bài văn phân tích để vận dụng vào bài Mùa xuân chín. Tham khảo bên dưới để biết chi tiết cụ thể.
Bạn đang xem: phân tích bài thơ mùa xuân chín
Dàn ý phân tích Mùa xuân đã chín
1. Mở bài
Bài thơ “Mùa chín” là bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi Hàn Mặc Tử.
2. Cơ thể
Báo hiệu mùa xuân đến:
- Ánh sáng mặt trời
- giấc mơ khói
- Mái tranh bên giàn thiên lý
-> Thanh u, giản dị, đằm thắm mà tình cảm
Cảnh quê tràn ngập sắc xuân:
- Mưa xuân thêm sức sống
- Cỏ xanh tươi "gợn sóng tận trời"
- Thú vui của con người khi xuân về
Hạnh phúc lứa đôi
Giọng hát ngây thơ khiến lòng người xao xuyến, xao xuyến
=> Mùa xuân mang hương vị "chín" của lòng người, đời người
3. Kết luận
Tiếng nói kết tinh bằng trái tim nhân hậu của một nhà thơ, Hàn Mặc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” đầy đặn, tròn đầy, tha thiết.
Phân Tích Mùa Xuân Chín – Mẫu 1
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận xét: “Thơ Hàn Mặc Tử là thơ vươn lên từ sự hủy diệt hướng tới sự sống”. Đúng là như vậy, đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một trái tim khát khao yêu đời, được sống. Một trong số đó là bài thơ "Chín mùa xuân". Bài thơ được rút từ tập Nỗi đau (1938) - được coi là “thơ trong sáng nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo nhưng cũng đầy bí ẩn và đau đớn.
“Mùa Xuân Nguyên Đán” gây ấn tượng với độc giả bởi chính tựa đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một bóng tối mơ màng, huyền bí, buồn đau với những hình ảnh tiêu biểu là “máu”, “trăng” và “rượu”. Tuy nhiên, “mùa chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” là tính từ chỉ trạng thái của trái khi đến thời điểm thu hoạch, ngọt, mọng nước và thơm. Với tâm niệm đó, Hàn Mặc Tử đã làm nên một “mùa xuân chín” - mùa xuân căng tràn nhựa sống, tròn đầy và viên mãn. Mùa xuân là lúc đẹp nhất, rạng rỡ nhất và tràn đầy sức sống.
Mạch thơ là một dòng suy tưởng bấp bênh, chuyển kênh đột ngột. Khoảng thời gian tác giả đang đắm chìm trong giây phút hiện tại với cảnh đẹp mùa xuân hiện ra trước mắt, chợt nhớ về quá khứ xa xăm với cảnh làng quê thân yêu. Về khung cảnh, bức tranh mùa xuân đang từ bên ngoài (mái tranh, giàn thiên lý, sóng cỏ xanh,…) bỗng chuyển sang tâm trạng (cô gái cày ruộng bên bờ sông trắng xóa). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tư tưởng của mình với nhiều khúc ngoặt: từ say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến, bùi ngùi. Có thể thấy, mạch thơ không đi theo một hướng mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó là phong cách thơ độc đáo của nhà thơ Hànộimới.
Mở đầu bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, tràn ngập ánh sáng, tràn ngập sắc xuân:
“Trong nắng cháy, giấc mơ tan biến
Hai mái tranh lác đác vàng
Gió xào xạc trêu tà áo xanh
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân đến”.
Mùa xuân tự nhiên hiện ra ngập tràn trong sắc vàng của nắng lẫn trong làn sương huyền ảo và huyền bí. Sự kết hợp từ “khói tan mộng” khiến ta hình dung sương mù như tan trong nắng tạo nên một khung cảnh thơ mộng. Màu vàng của nắng càng rực rỡ hơn với hình ảnh “những mái tranh vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, tĩnh lặng ấy, nhà thơ bất ngờ bắt gặp tiếng “xào xạc” của “gió trêu tà áo xanh”. Biện pháp đảo ngữ, nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng một cách tài tình. “Xào xạc” được đảo ở đầu câu để nhấn mạnh tính động của cảnh vật. Những cơn gió như đang đùa giỡn với tà áo xanh đón xuân, làm cho mùa xuân trở nên rực rỡ, tươi vui và rộn ràng. Từ mái tranh, nhà thơ chuyển điểm nhìn của mình sang “thần trời”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như ngắt nhịp, ngắt nhịp. Bởi đó chính là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân”. Mùa xuân là hữu hình, có thể nhìn thấy bằng mắt. Bóng xuân nhẹ nhàng bước tới như đứng trước mặt thi nhân, làm người ta ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử nhìn ra xa bằng cái nhìn phối cảnh. Không gian mùa xuân được mở rộng với “sóng cỏ xanh rì tận trời”. “Sóng” được kết bằng những tấm thảm xanh, khiến người đọc hình dung từng lớp cỏ nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như căng tràn mãnh liệt. Ý thơ làm ta liên tưởng đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận, nhưng nét độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi lớp cỏ xuân mượt mà, nhẹ nhàng, êm ái. Phải chăng sức sống tuôn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại để tạo nên một “mùa xuân chín muồi”!
Từ cảnh thu, Hàn Mặc Tử bỗng chuyển sang thu tình, bức tranh ngoại cảnh lại trở về bức tranh tâm trạng. Phải chăng nhà thơ dùng cảnh mở đầu để nói tình, tả tình? Một tình yêu nồng ấm, tha thiết với con người và cuộc sống. Hòa chung với không khí vui tươi của mùa xuân, ta thấy trong lòng người rạo rực:
“Cô thôn nữ hát bên đồi bao nhiêu
Ngày mai trong mùa xuân xanh ấy
Có người theo chồng bỏ cuộc chơi”.
“Xuân xanh” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Mùa xuân của họ đẹp và rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Vì vậy, niềm vui của những cô gái làng quê trong độ xuân thì là tình xuân. Nắng ửng hồng là đôi má ửng hồng của những cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự cam kết trong hôn nhân lên đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Sự “chín muồi” trong tình yêu là kết quả của vợ chồng. Niềm hạnh phúc của các cô gái được thể hiện qua “tiếng hát vang giữa lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. Tiếng “hát” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được cảm nhận một cách hữu hình và hòa quyện trong trạng thái “vắt”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát say mê của con người như có sức hút, vút cao đến lưng chừng núi, thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt. Âm vang của câu hát có vẻ ngập ngừng nhưng “vắt lưng chừng núi” tạo nên âm thanh vang vọng khắp không gian. Tình xuân từ thiên nhiên lan tỏa, tương ứng với tình xuân trong lòng người, cả hai hòa vào cùng một khúc ca. Đó là tiếng hát của những cô thôn nữ nhưng cũng là tiếng hát của mây. Thiên nhiên và con người cùng hòa ca, hay hát trong lòng thiên nhiên, hát qua lời ca con người.
Từ những âm thanh the thé, hổn hển như lời nước mây bỗng trở thành những tiếng thì thào nho nhỏ:
“Thầm thì với ai ngồi dưới lũy tre
Nghe có vẻ ngọt ngào và ngây thơ.”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai bên sông trăng” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng hát” vang dội khắp núi rừng giờ chỉ còn dành cho “ai đó”. Đó có thể là người bạn yêu, hoặc cũng có thể là chính bạn. Để rồi khi tâm sự, chia sẻ, người ta mới lắng nghe được những “ý nghĩa, hồn nhiên” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ còn mang nỗi buồn tiếc nuối của nhà thơ trước “mùa chín”. Bởi “mùa xuân chín” cũng là lúc “mùa xuân tàn”, nhan sắc rồi cũng sẽ tàn phai. “Cái xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Thanh xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng sẽ có lúc kết thúc. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một cảm giác bùi ngùi, xao xuyến, muốn níu giữ lấy hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, đến cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử hóa thân vào “khách đường xa” bày tỏ nỗi nhớ:
“Khách phương xa, xuân về gặp nhau
Lòng buồn nhớ làng
-Chị ơi, năm nay còn gánh lúa
Dọc hai bên bờ sông trắng xóa nắng.
Trước “mùa chín”, lòng những “khách phương xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân yêu. Nhớ ánh nắng chói chang, nhớ những mái tranh, nhớ tà áo dài xanh và nhớ giàn thiên lý. Đó là không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi nhưng chan chứa yêu thương. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh gạo trở thành trung tâm của nỗi nhớ. "Cô ấy" là một cách nói thông thường. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi quê tác giả, có thể là người quen thân, cũng có thể là người tình của nhà thơ. Tuy nhiên, dù thế nào thì ta cũng thấy được tình yêu và sự kính trọng của tác giả dành cho “chị”. Cô gái hiện lên trong vẻ đẹp lao động với tư thế gánh lúa hòa cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng xóa. Khung cảnh nên thơ, lãng mạn hiện ra làm sao! Ta có thể thấy nắng xuân lúc này càng lung linh, lung linh hơn trong nỗi nhớ của người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hòa của sắc xuân và tình xuân. Không chỉ là mùa xuân chín mà trái tim cũng “chín” với bao khát khao đồng cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Nét tiêu biểu làm nên nét độc đáo của “Mùa xuân nguyên vẹn” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ mang phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt 4/3 là nét tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, vần cuối câu 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với hình thức thơ Đường luật. Đó là những yếu tố tạo nên phong cách cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, nhà thơ họ Hàn chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ siêu thực tượng hình là tạo ra những hình ảnh huyền ảo, bí ẩn, thậm chí thần tiên với những cách kết hợp từ mới lạ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm xúc. giác quan. Có thể thấy, ngòi bút của Hàn Mặc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc tạo ra những tổ hợp từ mới: xuân chín, bóng xuân rực rỡ, đám xuân xanh, tiếng hát líu lo, êm dịu và ý nghĩa. Vô tội. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hình dung một cách thật tài tình và độc đáo. Nét thơ mới tạo nên nét hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Cùng với dòng phát triển của Thơ mới lúc bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo nên một lối riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy lên cao trào. Đọc “mùa xuân chín” ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn hình ảnh mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ và tràn đầy nhựa sống để nói lên “mùa xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình yêu, “chín” trong nỗi nhớ con người, cuộc sống và quê hương. Nổi bật hơn cả là tấm lòng khao khát đồng cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, gìn giữ những nét đẹp tinh hoa của cuộc sống. Khát vọng ấy trở thành sợi dây xuyên suốt sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để những tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang đến tận bây giờ.
phân Mùa Xuân Chín - Mẫu 2
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có phong cách thơ rất độc đáo và lạ mắt. Ông để lại nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái quê, Thơ điên hay Chơi giữa trăng. Bài thơ “Chín mùa xuân” là bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi nhà thơ.
Nhan đề bài thơ thật ấn tượng “Nguyên xuân”, nghe như có một sự êm dịu, thoang thoảng hương thơm của một mùa xuân rộn ràng nhưng không kém phần gần gũi, ý tứ chất chồng tầng tầng lớp lớp ý nghĩa sâu xa khiến ta tò mò. khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để phát hiện ra độ “chín” của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử như thế nào.
“Trong nắng cháy, giấc mơ tan biến
hai mái nhà tranh lác đác vàng
Gió xào xạc trêu tà áo xanh
Trên giàn thiên lý bóng xuân về”
Bức tranh xuân quê thanh bình, hữu tình mà đằm thắm. Trong ánh nắng nhẹ của bầu trời, những làn khói như tan đi, tạo nên một vẻ đẹp mộng mơ, không quá cụ thể, chỉ vài nét chấm phá nhưng khiến ta xao xuyến trước khung trời bình yên lúc này. . Trên những mái nhà tranh của vùng quê nghèo điểm xuyết màu của hoa trời, làn gió nhẹ đung đưa những chiếc lá xanh tạo nên âm thanh lạ lùng “xào xạc”, tất cả thật êm dịu mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo hiệu mùa xuân đến, mùa xuân đến, cây cối, thiên nhiên, đất trời và lòng người như hòa quyện vào nhau:
Xem thêm: 35 đề ôn luyện toán lớp 4 (có đáp an)
“Cỏ tươi gợn sóng lên trời
Làm sao thôn nữ hát trên đồi;"
Vạn vật mang theo sức xuân, cơn mưa xuân tiếp thêm sức sống xanh tươi cho cỏ cây “tung tăng” như đùa giỡn với nắng, với gió, với mây. Tiếng hát đón xuân của nhiều cô gái thôn quê chan chứa tình cảm, xuân về khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tràn đầy sức trẻ, yêu đời. Nhạc vang lên với lời bài hát:
“Ngày mai nơi suối xanh ấy
Có người theo chồng bỏ cuộc chơi”.
Niềm vui của mùa xuân hòa cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, để rồi mai đây trong số những cô thôn nữ ấy, ai đó sẽ đi lấy chồng bỏ lại niềm vui, có một chút tiếc nuối xen lẫn trong niềm vui ấy. Mùa xuân tô điểm cho đời, đơm hoa kết trái ngọt cho tình yêu, mùa hạnh phúc ngập tràn.
“Tiếng hát giữa lưng chừng núi,
Thở hổn hển như lời của một đám mây,
Thì thầm với ai ngồi dưới lũy tre,
Nghe có vẻ ngọt ngào và ngây thơ…”
Tình yêu cuộc sống vẽ nên trong “tiếng hát” lưng núi hồn nhiên, trong sáng, vui tươi, hòa quyện với cảnh vật, âm vang mãi không thôi. Những âm thanh dường như đang chuyển động theo nhịp điệu của thời gian, “thở hổn hển” “thì thầm” với nhau thật ý nghĩa, thân thương. Âm hưởng bài thơ khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến lạ thường.
“Khách phương xa gặp nhau trong mùa xuân”
Lòng buồn nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh lúa
Bên bờ sông trắng xóa nắng”.
Nếu như ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây xanh tươi thì ở đây là hình ảnh đối lập khi mùa xuân đã chín, mùa xuân không còn thơ mộng như lúc mới đến, nó mang màu của sự tiếc nuối, màu của nắng. . gió quê: “Dọc sông trắng xóa nắng bao giờ”. Âm m “ang” cuối khổ thơ khiến cho câu thơ mang một tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng của một người đang băn khoăn, xót xa cho thân phận người con gái:
“Chị năm nay còn gánh lúa
Bên bờ sông trắng xóa nắng”.
Nếu xưa, khi còn trẻ, nhịp xuân về với lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào thì bây giờ, khi xuân đã xa, “chị ấy” giờ đã thành đàn bà. . người phụ nữ với nhiều lo toan. Cuộc sống và trách nhiệm công việc của người mẹ, người vợ nặng nề hơn nhưng dù vất vả nhưng người đẹp vẫn tỏa sáng.
Lời thơ rất nhẹ nhàng, giọng điệu giản dị nhưng được nhà thơ lựa chọn rất tinh tế. Mỗi âm tiết thốt ra là cả một bầu trời tình thương mang cả sự đồng cảm và nỗi nhớ quê hương bao la, vất vả, gian khổ. Bằng giọng văn kết tinh và trái tim nhân hậu của thi nhân, Hàn Mặc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” tròn đầy, đủ đầy và tha thiết.
phân Phân tích bài thơ Mùa xuân chín – Văn mẫu 3
Không biết mùa xuân có bao giờ và thơ xuân có bao giờ chỉ biết con người sinh ra có một mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống và hơi thở của hồn thơ, sống trong cuộc đời, không có xuân thì không có thơ xuân là vậy. buồn. Hôm qua, hôm nay và mai sau, có thơ xuân cho người, cho đời. Và hôm qua, có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong người lữ khách ấy đã đến độ sung mãn.
Nói đến mùa xuân, có ai lại không hiểu rằng đó là những thời khắc rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc đời? Mùa xuân là một khoảnh khắc trong thời gian, có khi là “mùa xuân nho nhỏ”, có khi là “mùa xuân xanh”… và ở đây “mùa xuân chín” nghe vừa mới mẻ, sôi động, vừa có sức sống dồn nén đang âm thầm sục sôi. nở rộ như cái mới, cái lãng mạn và khát khao trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.
Từng dòng thơ phảng phất hơi xuân, thấm đượm vẻ đẹp tâm hồn thi nhân. Mùa xuân kể từ nắng mới lạ:
“Trong nắng cháy, giấc mơ tan biến
hai mái nhà tranh lác đác vàng
Gió xào xạc trêu tà áo xanh
Trên giàn thiên lý bóng xuân về”.
Đúng là nắng xuân không phải là một tia nắng, là một hạt nắng, không phải là một giọt nắng, mà là một “nắng”. Từ “làn” như gợi lên một hơi thở nhẹ nhõm, nắng như mỏng manh, dịu dàng trải đều trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “thắp sáng” trong “khói mơ”. Khung cảnh nhẹ nhàng, xinh đẹp, mộc mạc mà huyền diệu. Sương khói lẫn với nắng; “khói” nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan biến” ấy. Ngòi bút của thi nhân vẫn hướng đến một thể thơ truyền thống, cổ điển, cảnh mà như có hồn, như chứa chan tình. Trân trọng chào đón nắng mới tinh khôi là “Đôi mái nhà tranh dát vàng”!. Lời đối đáp trong thơ tạo cảm giác ấm cúng, cảnh vật hài hòa, đầy chất thơ. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng tinh tế, gợi cảm, đơn giản nhưng đáng yêu. Chỉ những “mái nhà tranh” hiện ra trong “nắng chói chang” nhưng vẫn gợi lên một cuộc sống lay động, bình yên, mộc mạc, thân thuộc với mọi người. Nắng dường như rắc lên những “mái nhà tranh” một chút sắc xuân và hương xuân: “Gió xào xạc trêu tà áo xanh”. Tiếng gió “trêu ghẹo” tà áo và màu “xanh biếc” của lá này chính là tình yêu của mùa xuân. Một chữ “trêu” thật dễ thương, thật thân thương, không gì bằng mang hương vị quê hương từ những câu dân ca, những câu hát giao duyên luôn ngân nga trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà “trêu”. phải chọn màu áo xanh mới nên thơ, thật đẹp. Thanh xuân là thế, “chín” là thế!
Từ cụ thể, từ nắng, từ mái tranh, từ gió rồi khái quát: “Trên giàn trời. Bóng xuân về". Câu thơ có sự ngưng đọng, ngập ngừng của cảm xúc nhẹ nhõm, bùi ngùi, lưu luyến đón "bóng xuân", cảm xúc nín thở ấy ẩn hiện trong dấu chấm ở giữa bài thơ. Mạch thơ chùn xuống như một mạch cảm xúc Bên giàn thiên lý xuân đã về Xuân nhẹ bước… như cầm được, thấy được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm (.), sau dấu chấm ngưng và rung lên như một sợi dây căng ra trong tâm hồn nhà thơ, mùa xuân ùa về:
“Cỏ xanh tươi gợn sóng tận trời,
Làm sao thôn nữ hát trên đồi”.
Cỏ như mãi mãi xanh, mãi tươi trong không gian bao la, rộng lớn. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba từ “gợn đến tận trời” gợi cảnh cỏ xanh đung đưa trong gió xuân nhè nhẹ. Không biết ngoài cỏ có sóng thật hay cỏ non xanh tươi trong lòng nhà thơ lại gợn lên thành những “sóng” như thế? Mùa xuân không bao giờ thiếu màu xanh của cỏ cây. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Đầu xuân xanh như yên ngựa – Nguyễn Trãi). “Cỏ xanh đến tận chân trời” (Nguyễn Du)... Cái mảng màu “xanh” tràn đầy sức sống thanh bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn đến tận trời”, trải dài như vô tận, trải mãi, đắm chìm trong hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng chín muồi. Khúc hát giữa mùa xuân sao mà thân thuộc, thân thương như thế. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như hội xuân muôn thuở của xứ này được nói lên qua tiếng hát “nuột nà”, “ngây thơ” của những cô gái xuân thì, những cô thôn nữ. khúc tình ca của trai gái chân quê, mộc mạc mà trìu mến.Tâm hồn nhạy cảm và yêu đời nồng nàn của thi sĩ Hàn Mặc Tử đọng lại trong khúc hát ấy bao nỗi niềm.Mùa xuân mới thực sự “chín” khi có người và có tiếng hát vọng lại:
“Tiếng hát giữa lưng chừng núi,
Thở hổn hển như lời mây nước
Thì thầm với ai ngồi dưới lũy tre
Nghe có vẻ ngọt ngào và ngây thơ."
Âm thanh đọng lại trong từng âm tiết, độ rung, tiếng “ép” hài hòa với âm trầm “thở hổn hển” thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn nhà thơ đã hoàn toàn hòa nhập vào thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng hát như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến lưng chừng núi. Tiếng hát Du vang vọng như kéo dài, rung “ép” gợi bao cảm xúc xao xuyến trong lòng thi nhân. Tiếng hát “thở hổn hển” được so sánh “với lời mây nước”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “thở hổn hển” như một hơi thở gấp gáp, gấp gáp đầy hương xuân, tình xuân, những cảm xúc vừa thực vừa mộng đến lạ lùng. Lời ca của những cô thôn nữ da diết mà thật đáng yêu, như hút hồn người, như lấp đầy cả không gian, góp nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thủ thỉ “thì thầm với ai…” dưới bóng tre, chắc tình cảm lắm em ơi. “nuốt”, “hí hửng”, “thầm thì” là ba thanh điệu của ba âm thanh chín mọng của mùa xuân, thấm sâu vào tâm hồn con người đến sự nhẹ nhõm nhẹ nhàng, chan chứa yêu thương. Sự phong phú về nhạc điệu, đa âm của những bài hát đồng quê làm say lòng mọi người, để rồi cùng với nhà thơ cảm nhận bâng khuâng: “Nghe ngọt ngào và hồn nhiên…”.
Khúc hát xuân thật mộc mạc, đằm thắm và yêu kiều, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “chín” dần trong lòng cô thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hụt hẫng, bối rối:
“Ngày mai trong mùa xuân xanh ấy,
Có người theo chồng bỏ cuộc chơi”.
“Suối xanh ấy” là tiếng hát của cô thôn nữ, “thì thầm với ai ngồi dưới lũy tre” sẽ chín theo mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như lưu luyến mùa xuân. " dần trôi qua, tuổi trẻ hồn nhiên cũng dần trôi qua. Hàn Mặc Tử dường như chợt buồn, thấy hụt hẫng, buồn như đánh mất một cái gì trong lòng khi mùa xuân chín… “Xuân đến, xuân đi – Xuân còn trẻ, xuân sẽ già” Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử là người lữ khách đi qua bao mùa xuân để gặp hương vị của mùa xuân: “Khách phương xa gặp khi mùa xuân chín…”. Một “xu hướng xuân” cổ điển truyền thống xen lẫn hiện đại, mới mẻ càng làm cho ý thơ thêm phong phú.
Gặp nhau lúc chín mà lòng thổn thức:
“Lòng buồn nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh lúa
Dọc hai bên bờ sông trắng xóa nắng.
Hình ảnh của kí ức thể hiện một nỗi buồn đẹp đẽ và lan xa mãi. Nhà thơ nhớ người như nhớ về một tình người, tình đất nước. Kỷ niệm nào cũng buồn lắm. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh gạo” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng xóa nắng”. Chỉ có “chị ấy” người đọc không thể biết, mà chỉ có tác giả biết để “nhớ” mà thầm hỏi. Nhưng e rằng “mùa xuân chín muồi” ấy sẽ qua. Hình như đó là thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với cuộc đời nhưng luôn có một cảm giác cô đơn, trống trải và vô vọng như vậy.
“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là bức tranh mùa xuân mới nhất, trong sáng, rực rỡ, nồng nàn, nên thơ nhưng buồn nhất. Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung, bình dị đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi tắn, thơ mộng. Mùa xuân tươi đẹp. Những người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu quê, yêu nắng trong veo, yêu mái tranh, yêu giàn Thiên Lý, yêu tiếng hát của những cô gái xuân thì trên “sóng cỏ xanh rì rào tận trời”.
Cái “mùa xuân chín” có lúc dạt dào, có lúc êm đềm trong tâm hồn nhà thơ. Có lúc ào ạt, có lúc lại mênh mang, như đang lắng hồn mình vào những cung bậc của mùa xuân để rồi bồi hồi, “nhớ…”, “xốn xang”. Nỗi nhớ da diết của người lữ khách mãi mãi là tình yêu, là niềm khao khát được giao cảm với hương sắc và điệu nhạc của mùa xuân, với làng quê thân quen miền Trung “Dọc đôi bờ sông trắng nắng vàng”…
Bạn thấy bài viết Văn mẫu 10: Phân tích bài thơ Mùa xuân chín hay nhất (3 mẫu) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Văn mẫu 10: Phân tích bài thơ Mùa xuân chínhay nhất (3 mẫu) dưới đây để thpttranhungdao.edu.vn thay đổi & hoàn thiện nội dung tốt hơn phục vụ bạn đọc! Cảm ơn các bạn đã ghé thăm Website trường THPT Trần Hưng Đạo
Thể loại: Văn học
Xem thêm: kiểm tra giữa kì 1 toán 8
Nguồn: thpttranhungdao.edu.vn
Bình luận