Phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao Duyên (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
“Trăm năm trong cõi
Bạn đang xem: phân tích 12 câu đầu bài trao duyên
Chữ tài chữ mệnh là ghét nhau"
Trăm năm ấy không chỉ là khoảng thời gian hữu hạn của một con người mà còn là sự biến thiên muôn thuở của kiếp người. Trước một xung đột, biết xoay chuyển thế nào, Nguyễn Du mới thấy được sự kết thúc của cuộc đời trong “thế nhân” để rồi xót xa thấm đẫm hồn Vân Chiu và tiếng khóc thê lương trong kiếp Kiều suốt 15 năm. mất. Đọc Truyện Kiều ta thấy thương cho cuộc đời lắm cơ cực của Nguyễn Du. Nghĩ đến người tài hoa bạc mệnh nay lại nhớ Kiều da diết. Ở góc độ nghệ thuật, “Truyện Kiều là một thành tựu đạt đến giá trị mẫu mực cổ điển. Kiệt tác văn chương đã trở thành những sự kiện văn hóa lớn thành một tổng thể giá trị văn hóa cộng đồng xuất hiện và tái sinh ở nhiều vùng văn hóa khác của một đất nước. (GS. Đặng Thanh Lê). Tuy nhiên, cái gốc nhân đạo vẫn là yếu tố hàng đầu quyết định sự bất tử của Truyện Kiều mà ở đoạn trích Trao duyên ta thấy được sự cảm thông, trân trọng trước nỗi bất hạnh lớn nhất của nàng Kiều khi phải xé nát cõi lòng. Trái tim đã hi sinh mối tình, trao lại cho em. Trong đó, 12 câu thơ đầu là những dòng tâm trạng của Kiều khi thuyết phục người anh lấy vợ.
Shakespeare đã từng viết: “Đồng xu lăn trên lưng con người. Tiền xoay trái xoay phải, đen đổi trắng, góa phụ thành tân nương.” Cũng chính sức mạnh ghê gớm của đồng tiền khiến tai họa bất ngờ ập đến với gia đình họ Vương. Bị người buôn lụa vu oan, tài sản cũng bị cướp sạch, Vương Viễn và Vương Quân bị quan lại bức hại, nếu không có tiền chuộc sẽ rơi vào cảnh tù đày khổ sai. Trước cảnh tình éo le, Kiều phải bán mình cứu em, nàng đau đớn khi nghĩ đến mình là kẻ bội bạc với Kim Trọng. Vì vậy, trước khi dấn thân vào con đường nghịch cảnh, Kiều tha thiết trao gửi tình yêu của mình cho em gái. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 trong phần Gia biến và lang bạt. Ngoài thành công về mặt ngôn ngữ, thể thơ dân gian kết hợp với nghệ thuật trần thuật, đoạn trích “Trao duyên” còn thể hiện một cách sinh động, tinh tế những giằng xé nội tâm, nỗi đau của Kiều qua ngôn ngữ đối thoại và hành động.
Đêm khuya, một mình trong canh vắng, chịu đựng nỗi đau đang cắt ngang lòng mình, Thúy Kiều như trăm mối thắt lại. Giữa tình yêu và chữ hiếu, cô đã phải lựa chọn chứ không thể làm khác. Để trọn vẹn tình yêu với người đã thề nguyền, nàng phải trao lại tình yêu của mình cho Thúy Vân. Sự đấu tranh giữa lý trí và tình cảm khiến Kiều gần như kiệt sức. Bi kịch tình yêu tan vỡ đã được định sẵn, và sau đêm nay, Kiều còn phải gánh chịu bi kịch của một kiếp lưu lạc đầy cay đắng của một kiếp hoa bị sóng gió vùi dập. Trong 34 câu thơ lục bát có thể tạm chia làm ba phần. Trong đó, 12 câu thơ đầu diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều khi thuyết phục và trao mối tình cho Thúy Vân.
"Tin tôi đi, tôi sẽ chấp nhận,
Ngồi dậy cho tôi và tôi sẽ nói,
Giữa đường đứt gánh,
Keo dính nhau mặc lụa thừa em''.
Đoạn trích mở đầu bằng một lời cầu xin trong sáng và trang trọng. Kiều van xin người anh nhận lời để trả lại tình nghĩa. Xưa nay, chữ nợ là do ông Tơ bà Nguyệt se duyên hồng nhan. Theo Phật tử, nhân duyên không tự nhiên mà đến, nó là kết quả của tiền kiếp, của những ân oán kiếp trước mà mỗi người đều có. Chính vì thế mà dân gian còn có câu “ruộng ai nấy đắp bờ/ Ai nấy gặp nhau, đừng chờ vô ích”. Cũng chính vì nhân duyên nằm trong tay mỗi người mà chi phối số mệnh của họ dù ngắn hay dài, bền như keo hay mỏng như tơ. Chuyện tình Kim Kiều nhen nhóm là do chữ duyên, nay thuyền đã không theo dòng cũ cũng coi như tình yêu không thể tiếp tục nhưng Kiều đã không theo số phận sắp đặt lại bằng cách trao lại mối tình dang dở. , nhờ Thúy Vân nối lại tình xưa với Kim Trọng. Một hành động khác thường phải đi kèm với những cử chỉ và lời nói khác thường
"Hãy tin tôi, tôi sẽ chấp nhận",
Ngồi dậy cho tôi lạy rồi tôi nói cho”.
Về điểm này, rõ ràng Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Chỉ với một từ “cậy” và hình ảnh “em” xuất hiện hai lần trong cùng một câu thơ, một cuộc trao duyên long trọng đã bày ra trước mắt Thúy Vân. Tôi “cậy” chứ không phải dựa vào bạn vì điều tôi sắp nói đây là điều thiêng liêng tôi giữ như báu vật. Chỉ có chữ “tín” mới đủ sức nặng của một thanh tra cố hữu để nói lên tâm trạng u sầu, nặng trĩu của Kiều, và sức nặng ấy cũng chính là trách nhiệm lớn lao mà Kiều đặt lên vai mình. Cũng có nghĩa là nhờ ai làm gì giúp mình cũng giống như “tin tưởng” khác “nhờ vả” ở chỗ hàm chứa cả sự mong mỏi tha thiết, sự tin tưởng gần như tuyệt đối. Đó không chỉ là sự “tin tưởng” của Thúy Kiều để Thúy Vân hiểu rằng mình là nơi bấu víu cuối cùng của người em gái và không thể từ chối mà phải “chịu đựng”. “Tuân” là chấp nhận, là đồng ý chấp nhận, nhưng chữ “chấp” cũng nặng như chữ “cậy”. Thứ mà Kiều trao cho Vân, Vân không thể suy nghĩ, không thể đồng ý hay không đồng ý vì đó là sự nài nỉ của chị gái, buộc Vân phải nhận.
Cùng với lời nói đầy ẩn ý, hành động “lạy người rồi thưa” của Thúy Kiều cũng là một nghịch lý. Thông thường, chúng ta chỉ thấy người dưới cúi đầu trước cấp trên, xét theo địa vị và thứ bậc xã hội của xã hội phong kiến, hành động này thật là khác thường. Theo Tam quốc diễn nghĩa, xưa có một vị Sở Tử Vương Doãn vì muốn con gái mình gánh vác trọng trách lớn mà nguy hiểm nên đã dùng thủ đoạn mỹ nhân để chia cắt cha con Đổng Trác. Giờ đây, nàng Kiều ý thức được mối quan hệ của Vân với Kim Trọng trên danh nghĩa cũng là khó khăn, bất lợi cho mình nên nàng Kiều cúi đầu nói chuyện sau. Đây là một hành động hoàn toàn sáng tạo của Nguyễn Du không có trong Kim Vân Kiều truyện. Hành động này đã buộc Vân vào tâm thế phải nói chuyện nghiêm túc mà hơn hết Vân không thể từ chối. Chỉ có rơi vào ngõ cụt, bế tắc và đau khổ thì Kiều mới nương tựa vào Vân như thế. Suy cho cùng, mọi việc Kiều làm, dù là khác thường, đều xuất phát từ tấm lòng cao cả trong tình yêu. Tình yêu mà nàng dành cho Kim Trọng thật cao cả và đẹp đẽ, nàng day dứt khi không giữ được lời nguyền nên đã xin em đứng ra chịu trách nhiệm.
Có thể thấy việc Kiều làm là có chủ ý, có mục đích và được đặt trong một kế hoạch. Cái khó nhất là Kiều phải làm thế nào để hoàn thành đúng kế hoạch ban đầu, hay nói cách khác là Kiều đang cố gắng hoàn thành vở kịch chứa đựng nhiều mâu thuẫn, xung đột buộc nàng phải lái cảm xúc của mình đi vào quỹ đạo. . Tâm trí cô sắp xếp những gì cô phải làm, những gì phải nói để thuyết phục Thụy Vân, và cảm xúc của cô luôn có xu hướng chống đối và lăng nhăng. Ngay cả khi cô ấy đủ tỉnh táo để quyết định, mỗi lời nói của cô ấy đều bị ám ảnh bởi nỗi đau của sự chia ly sắp xảy ra. Kiều bỏ qua logic tự nhiên của lời nói và đi thẳng vào chủ đề.
“Giữa đường đứt gánh tương tư.
Keo dính nhau mặc em bằng lụa thừa”
Xem thêm: ý nào sau đây không đúng với ngành dịch vụ của nhật bản
Thông thường, để người nghe chuẩn bị tinh thần, người ta sẽ bắt đầu bằng những câu chuyện trước đó, từ cổ chí kim. Lẽ ra Kiều phải làm thế nên mới nhắc lại mối tình với Kim Trọng. Kể cho Vân nghe về lời thề đôi lứa và nỗi đau khi phải lựa chọn chữ hiếu. Dựa vào những điều này mới đủ dữ liệu để người nghe từng bước nhận ra mấu chốt câu chuyện và hoàn cảnh khiến người nói nương tựa vào mình. Những chuyện này diễn ra một cách tự nhiên, tất nhiên một cô gái thông minh như Kiều sẽ hiểu. Tuy nhiên, Kiều đã đảo ngược thứ tự khiến Vân bất ngờ. Điều này cũng nằm trong sự tính toán theo tâm lý của nhân vật. Nhớ rằng Kiều lo lắng nhất là làm sao trả lại mối tình cho Vân và làm sao để Vân đồng ý. Điều đó trở thành nỗi ám ảnh khiến tâm trạng mỗi lúc thêm rối bời. Vì thế, Kiều nói ngay vấn đề chính là “keo keo dán vào tấm lụa thừa để mặc em”. Đây là cách duy nhất diễn tả đúng tâm trạng của Kiều.
Truyện Kiều không chỉ là mảnh đất của văn chương bác học, ngay cả những thành ngữ dân gian cũng được Nguyễn Du vận dụng một cách tinh tế. “Đứt gánh tình” là cách nói đầy hình ảnh ám chỉ những mối tình trắc trở, khi nồng nàn thì lụi tàn, khi đang thề non hẹn biển thì bỗng chia xa. Tình tiết này đúng với mối tình trăm năm của Kim Kiều. Chỉ thoáng qua cũng đủ diễn tả cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Vì chữ hiếu, vì xưa nay chữ hiếu chưa bao giờ là dễ dàng nên bà đành ngậm ngùi mà xin Vân nối lại mối tình “keo keo tơ thừa còn mặc em”. Mượn điển tích “Hán võ ngoại truyện” kể về Vũ Đế trong lúc bắn cung bị đứt dây, người dân Tây Hải đã mang keo làm từ máu chim nối lại dây. Từ chuyện nối lại dây cung bị đứt, nàng Kiều nhờ cậy chị gái thay mình nối mối tình với chàng Kim. Sợi tình đứt có thể nối lại nhưng phải tự mình làm lấy. Bản thân Kiều đã không làm được điều đó nên mối nhân duyên trở thành “sợi chỉ thừa”. Khi nói ra điều này, chắc hẳn Kiều đã rất đau lòng, xót xa cho cảnh ngộ của mình. Mối tình nồng thắm mà tôi nâng niu, xem nó như lẽ sống là một tấm lụa thừa. Thừa ở đây không có nghĩa là dư thừa, thừa thãi mà là một đoạn nhân duyên lộn xộn khiến người cho không nỡ dứt ra và người nhận cũng không dễ dàng đồng ý.
Đối với Kiều, mối tình với Kim Trọng thật đẹp, còn Vân thì sao? Liệu cô có hài lòng với sự sắp đặt của chị gái khi tuổi đời vẫn còn trẻ, cuộc đời còn nhiều ước mơ. Kim nữa à? Chàng sẽ yêu Vân như đã yêu Kiều, hay có miễn cưỡng đồng ý lấy nhau, cũng chỉ là đầy tình cảm dành cho kẻ bất hạnh mà thôi. Xét ở khía cạnh nào, người ta cũng phải công nhận rằng Thụy Vân nhận lời yêu là chấp nhận thiệt thòi về mình. Có lẽ vì thế mà khi dùng từ “còn sót lại”, Kiều đã ngầm hàm ý biết ơn Vân khi đặt quá nhiều trách nhiệm lên Vân, nhưng cũng chính Kiều đứng trong hoàn cảnh của em mình và cảm kích trước sự hy sinh của Vân. Vậy tình yêu này là của mình, là gì "mặc anh". Hai chữ “mặc em” là sự phó thác tất cả cho Vân.
Một khi điều khó khăn nhất đã được nói ra, phần còn lại sẽ lộ ra một cách dễ dàng. Kiều trở lại trình tự của câu chuyện, kể cho Vân nghe về mối tình của mình. Cái hay của cách kể này là tuy bị cảm xúc chi phối nhưng không lan man, dài dòng mà súc tích qua những hình ảnh “ngày quạt gió, đêm say”. Chỉ vài dòng như vậy, Nguyễn Du đã đưa nhân vật của mình sống lại kí ức những tưởng đẹp nhất trong đời Kiều trong đêm Kiều “vì hoa nên phải bôn ba tìm hoa”. Giây phút ấy, Kim Kiều đã ở cạnh hai mái đầu xanh, có vầng trăng chứng giám lời thề.
“Tiên sinh nguyện cùng viết một chương
Tóc mây, con dao vàng xẻ đôi”
Hai từ “khi” lặp lại câu thơ như ngậm ngùi khi Kiều nghĩ đến.
Sau giây phút hạnh phúc ngắn ngủi trong đời, rồi tiếp tục với lời giãi bày, Kiều nhắc đến bi kịch gia đình khiến nàng phải giằng co giữa ranh giới chữ hiếu và “tình yêu đôi bên khôn ngoan”. Ngôn từ của Kiều vẫn đủ khéo léo, sắc bén để từng bước phát huy mục đích, ý nghĩa của việc yêu cầu Thúy Vân “trao tình máu mủ thay lời nước non”.
“Ngày xuân của anh còn dài
Xót thương dòng máu non sông thay lời muốn nói
Dù cho thịt nát xương tan.
Cười chín suối còn thơm”
Một lần nữa Kiều đặt mình vào tình yêu của nàng để hiểu nàng. “Ngày xuân” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi của Thúy Vân. Ngày thanh xuân của em còn dài vì em còn trẻ, khoảng trời mộng mơ phía trước còn bao điều tươi đẹp đang chờ đón. Thế nhưng, em lại nỡ lòng mang một mối tình đã tan vỡ để nhờ anh hàn gắn lại. Kiều biết làm vậy có phần không thích hợp nhưng chắc chắn Vân sẽ hiểu rằng bản thân Kiều không còn sự lựa chọn nào khác. Nói về tuổi trẻ của mình để có thể ngầm chuyển cho Thúy Vân sự so sánh về tuổi trẻ của Kiều. Kiều có nhiều hơn Vân, cùng một sắc xuân đang nở rộ nhưng nàng phải chọn cách chôn vùi tuổi thanh xuân để làm tròn chữ hiếu, để gia đình yên ấm, để bảo vệ tuổi thanh xuân êm đềm của Vân. Kiều sẵn sàng bẻ đôi chữ đồng vì tình máu mủ ruột rà, việc Vân nhận lời thay mình vào cuộc tình với chàng Kim vẫn là điều Vân không thể từ chối.
Để tăng thêm sức thuyết phục, Kiều đã đặt mình vào hoàn cảnh của một người sắp chết để nói lên ước nguyện lớn nhất trong đời. Nếu đã là lời cuối thì ai nỡ từ chối. Khi nói về cái chết, Nguyễn Du đã khéo đưa hình ảnh “xương tàn”, “ngậm cười chín suối” để đánh một đòn tâm lý vào người đối diện, nhất là nếu lại là người “máu yêu” thử hỏi. Làm sao một cô gái tình cảm như Vân lại không mủi lòng? Những lời ấy tuy xuất phát từ sự toan tính của lý trí nhưng cũng là tiếng nói tình cảm chân thành xuất phát từ nỗi đau gần như tuyệt vọng của một tình yêu tan vỡ.
Chỉ trong 12 câu thơ đầu, ta thấy Nguyễn Du đã nhìn thấu đáo diễn biến tâm lí của Kiều. Thoát khỏi lối tượng trưng trung đại, các nhân vật trong đoạn trích có sự thống nhất về tính cách và nội tâm, đó là một khám phá mới của Nguyễn Du xuất phát từ tấm lòng nhân đạo sâu sắc đối với thân phận. một phần của phụ nữ. Những đấu tranh nội tâm, những cuộc đấu trí gay gắt giữa trái tim rung động đau đớn và lý trí đang cố tỉnh táo của Kiều đã bộc lộ tâm hồn của một cô gái cao thượng trong tình yêu.
Xem thêm: he will go out with his friends
Có thể thấy 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên” đã hoàn thành xuất sắc vai trò nghệ thuật của mình là đưa diễn biến tâm lý của Kiều vừa tự nhiên vừa sắc nét, đồng thời mở đầu khúc nhạc sầu mở đầu cho khúc nhạc. đoạn trường ca chia tay cuộc đời Kiều. Đoạn ấy sẽ là tiếng nói đau đớn của một kiếp hoa nhỏ giữa vòng xoáy nghiệt ngã của xã hội phong kiến.
Bình luận